Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 59
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
117
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải trang
một trăm ba mươi bảy, ḍng thứ năm.
“Viễn
siêu Thanh Văn, Bích Chi Phật địa, nhập Không, Vô
Tướng, Vô Nguyện pháp môn (kiến Đường
dịch). Thử nhị cú trùng thán hội trung đại
sĩ chi Thật Đức, sở giác thù thắng,
viễn siêu Thanh Văn dữ Bích Chi Phật chi địa”
(“Vượt xa địa vị Thanh Văn và Bích Chi
Phật, nhập pháp môn Không, Vô Tướng, Vô Nguyện
(xem bản dịch đời Đường)”: Hai câu này một
lần nữa tán thán Thật Đức của các vị
đại sĩ trong hội, sự giác ngộ của các
Ngài thù thắng, vượt xa các địa vị Thanh
Văn và Bích Chi Phật). Mấy câu này dễ hiểu;
đoạn kinh văn “siêu t́nh
ly kiến” này là đoạn thứ năm, mà cũng là
chuyện thứ năm. “Viễn
siêu Nhị Thừa”, Thanh Văn là Tiểu Thừa, Bích
Chi Phật là Trung Thừa. Câu kế tiếp là khế
nhập tam-muội, “nhập
Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn”, những
tam-muội này c̣n gọi là Đại Tam Không Tam-muội.
Hai câu này cũng là tán thán đức năng chân thật
của các vị Pháp Thân Bồ Tát dự hội. “Sở giác thù thắng”: “Sở giác” cũng là
điều các Ngài chứng đắc, thù thắng ở
chỗ nào? Thù thắng ở chỗ vượt trỗi
Nhị Thừa, “thù thắng”
là nói đến ư nghĩa này!
Tiếp đó, giải thích cho
chúng ta biết Thanh Văn là ǵ? “Thanh
Văn giả, Phật Tiểu Thừa pháp trung chi
đệ tử, văn Phật chi giáo, ngộ Tứ
Đế pháp chi lư, đoạn Kiến Tư nhị
hoặc, xuất Phần Đoạn Sanh Tử, nhi nhập
ư Niết Bàn giả” (Thanh Văn là đệ tử
trong pháp Tiểu Thừa của đức Phật, nghe giáo
pháp của Phật, ngộ lư của pháp Tứ Đế,
đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc, thoát khỏi
Phần Đoạn Sanh Tử, bèn nhập Niết Bàn). Đối
với những điều này, phải nói đại
lược một phen. V́ sao gọi là Thanh Văn? Nghe
đức Phật giảng kinh, giáo học, bèn khai ngộ,
ngộ nhập lư của pháp Tứ Đế. Tứ
Đế là nói đến Khổ, Tập, Diệt,
Đạo. Khổ là quả thế gian, Tập là nhân
thế gian. Cách nói của đức Phật và cách nghĩ
của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc giống nhau,
đều là nói quả trước rồi mới nói
đến nhân. Quả là ǵ? Quư vị đă từng nếm
trải, nên khi nhắc tới, quư vị sẽ có cảm
xúc vô cùng nhạy bén. Sau đấy, lại nói cho quư vị biết
cái nhân phát sanh cái quả ấy, chẳng phải là nói nhân
trước rồi mới nói đến quả. Vào
thời ấy, hễ nói “Đông
Phương và Tây Phương” th́ Đông Phương là
Trung Quốc, Tây Phương là Ấn Độ, cách nh́n
của cổ nhân tương thông. Đây là hai tầng nhân
quả, Diệt và Đạo là nhân quả xuất thế
gian; Diệt là quả, Đạo là nhân. Đó là pháp Tứ
Đế. Đế (諦) là chuyện chân thật, người
hiện thời gọi nó là “chân
lư”.
Đức Phật dạy con
người: Thế gian này chỉ có khổ, chẳng có
vui! Cái gọi là “vui” chính là ǵ vậy? Khổ tạm
thời ngừng trong chốc lát, tạm ngừng, chẳng
phải là vĩnh viễn ngưng dứt, quư vị bèn
cảm thấy rất vui. Thí dụ như ăn uống,
quư vị ăn no nê, ăn rất ngon, rất vui
sướng. Nếu quư vị chẳng được
ăn một bữa, liền cảm thấy khổ,
đói bụng mà! Hai bữa chẳng được ăn
càng khổ hơn. Đói tới bảy ngày sẽ chết
đói! Lẽ nào chẳng khổ? Khổ chẳng thể
biến thành lạc, cho nên khổ là thật, lạc là
giả. Thí dụ như ăn thứ ǵ đó [cảm thấy]
rất sung sướng. Ăn thứ quư vị ưa thích,
ăn một chén rất vui sướng, ăn hai chén vẫn
c̣n được, nhưng bắt quư vị ăn liên
tục tới hai mươi chén, khổ ngay! Đó gọi
là ǵ? Lạc có thể biến thành khổ, nên lạc
chẳng phải là thật, nhưng khổ chẳng
thể biến thành lạc. Trong kinh, đức Phật
đă giảng những chuyện này
rất nhiều, rất rơ ràng. Ngài dạy chúng ta,
người sống trong thế gian này có tám nỗi
khổ. Ngoài tám nỗi khổ (được gọi chung
là Khổ Khổ), c̣n có Hoại Khổ, c̣n có Hành Khổ.
Chúng sanh trong Dục Giới phải chịu đủ ba loại khổ lớn này, ai
nấy đều chẳng có cách nào tránh né bốn loại
đầu trong Khổ Khổ là sanh, lăo, bệnh,
tử.
“Thần
thức”: Nhà Phật gọi là “thần thức”,
người thế gian gọi là “linh hồn”. Linh hồn
đi đầu thai. Đến đầu thai th́ nhất
định là có duyên với cha mẹ. Chẳng có duyên,
kẻ ấy chẳng đến! Có người mong có con
cái, mong ngóng cả đời vẫn chẳng có!
Người ấy chẳng có duyên, chẳng có duyên gặp
gỡ. Duyên ǵ vậy? Trong kinh, đức Phật đă
dạy, duyên rất nhiều, rất phức tạp,
nhưng chẳng ngoài bốn loại lớn, bốn
loại lớn ấy gọi là “tứ
duyên sanh pháp”. Trong bốn loại lớn ấy, thứ
nhất là báo ân. Đứa trẻ ấy sanh vào nhà quư
vị hết sức ngoan ngoăn, khéo léo, thông minh, đáng yêu,
nó đến báo ân. Người Hoa gọi [đứa con
như vậy] là “hiếu tử,
hiền tôn” (con hiếu, cháu hiền). V́ thế,
người ta phải bố thí ân đức, v́ sao? Trong
tương lai, con cháu đến báo ân đông đảo.
Nếu kết oán cừu cùng kẻ khác, chuyện này sẽ
phiền toái lắm! Trong tương lai, đứa trẻ
sanh vào nhà quư vị để báo cừu, chẳng phải
là phiền phức hay sao?
Thuở trước, hơn
bốn mươi năm trước, tôi giảng kinh
Lăng Nghiêm tại Đài Bắc. Trong thính chúng có một
vị, nay đă mất, cụ đă văng sanh. Vị lăo
cư sĩ ấy lớn tuổi hơn chúng tôi rất
nhiều, đại khái lớn hơn tôi hai mươi
tuổi. Lăo cư sĩ đến nghe kinh mỗi ngày. Chúng
tôi nói đến những chuyện trong kinh, cụ bảo
tôi: “Những chuyện ấy là thật, chẳng giả!”
Trước thời Kháng Chiến, [tức là] trước
khi cuộc kháng chiến [chống Nhật] bùng nổ,
cụ sống tại Thượng Hải. Khi ấy,
cụ đă buôn bán, chính mắt trông
thấy. Không phải là chuyện của chính cụ, mà là
chuyện của một người bạn cụ,
tuổi cũng xấp xỉ tuổi cụ, hết
sức thân thiết, cũng là đồng hương,
họ là người tỉnh Chiết Giang.
Người bạn ấy giúp việc cho một doanh nhân
người Đức. Người Đức ấy kinh
doanh một công ty cỡ nhỏ về tàu bè, h́nh như
chỉ có một chiếc tàu. Người bạn ấy
hết sức thật thà, làm việc hết sức có trách
nhiệm, nên rất được ông chủ tín nhiệm.
Sau khi cuộc Kháng Chiến bùng nổ,
vị chủ nhân là người Đức, trở về
nước, ủy thác công ty cho ông ta, dặn ông ta hăy
cố gắng kinh doanh. Sau khi [ông chủ] trở
về nước, ngay cả tin tức cũng chẳng có,
cũng chẳng biết là c̣n sống hay không. Ông ta kinh doanh
công ty ấy rất thuận lợi, tiền kiếm
được lại dùng mua thêm mấy chiếc tàu
nữa, biến thành một công ty tàu bè [cỡ lớn]. Khi
đó, đang trong thời Kháng Chiến, người
Nhật chiếm đóng Thượng Hải; ông ta kinh doanh
khá lắm, cũng kết hôn, sanh được một
đứa con quả thật cũng rất đáng yêu,
cũng rất ngoan ngoăn, khéo léo, đó là một bé trai. Sau
khi Kháng Chiến thắng lợi, vị bằng hữu
ấy tuổi cũng đă rất cao, dường như
là nhằm sinh nhật thứ năm mươi, đứa
con lên mười. Đứa nhỏ ấy hết sức
thích dùng tiền, học Tiểu Học mà luôn đem theo
mười mấy đồng. Thuở ấy, mười
mấy đồng rất lớn. Trong thời gian Kháng
Chiến, có thể nói là mười đồng gần
như có thể dùng làm tiền chi dụng cả một
tháng cho một gia đ́nh bốn người. Đồng
tiền rất có giá! Có một hôm, đứa bé ấy
đi đường, làm rớt tiền, một cụ già
nhặt được. Cụ già ấy là bạn của
cha nó, do quen biết, nên cụ gọi tên đứa bé,
cầm tiền trên tay, bảo: “Ngươi gọi ta
một tiếng bác, ta sẽ trả món tiền này cho
ngươi”. Đứa bé ấy nói như thế nào? “Ông
gọi tôi một tiếng bác, tôi cho lại ông mười
đồng”. Đứa bé ấy láu lỉnh đến
mức độ ấy. Đến hôm sinh nhật, ông ta
đột nhiên thấy con ḿnh biến đổi, [có h́nh
dạng giống như] ông chủ khi trước, nên
mới hoảng nhiên đại ngộ: Ông chủ của
ông ta đă chết, đầu thai đến nơi
đây, tài sản này là của ông ấy. Do ông ta rất
thông minh, ngay lúc ấy bèn tuyên bố toàn bộ tài sản
của công ty này giao cho con ông ta, c̣n ông ta làm thuê cho con.
Vị lăo cư sĩ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện này,
đứa bé ấy đến đ̣i nợ. [Đời
trước], nó ủy thác quư vị kinh doanh, chẳng
tặng cho quư vị, nên lại [đầu thai] đến
[đ̣i nợ]. Người ấy thật thà, lăo thành, sau
khi tuyên bố, bèn giữ thân phận làm công, về sau
vẫn sống b́nh yên.
Cuối cùng, vị cư sĩ
họ Ổ ấy đến Đài Loan, cũng chẳng
có liên lạc, nhưng tôi tin tưởng kết quả
cuối cùng của [Ổ cư sĩ] sẽ tốt
đẹp, v́ ông ta hiểu nhân quả, chẳng có tâm tham,
vẫn chăm sóc đứa con rất chu đáo; bởi
lẽ, ông ta hiểu rơ đứa con đến đ̣i
nợ. Quư vị đối xử tốt với nó, nó
cũng đối xử với quư vị tốt
đẹp, cũng giống như trong quá khứ ông
chủ đă tin tưởng, tín nhiệm quư vị.
Đức Phật giảng chẳng sai, con cái bất
hiếu, khinh lờn cha mẹ, thậm chí giết hại
cha mẹ, đó là đến báo oán. C̣n có trường
hợp đến đ̣i nợ, hoặc đến trả
nợ. Đức Phật chia [mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái] thành bốn loại lớn ấy. Sau khi
đă giác ngộ, bất luận là quan hệ ǵ, mọi
người cùng nhau học Phật, biến thành
đồng tham đạo hữu. Chính ḿnh đă khai
ngộ, cũng giúp người nhà quyến thuộc ai
nấy đều giác ngộ, đó là tốt đẹp!
Đây cũng là như trong kinh thường nói: “Phật chẳng độ
kẻ vô duyên”. Bất luận đối với quư
vị là oán hay thân, là tranh chấp hay nợ
nần, nói chung đều là kẻ có duyên, hễ gặp
gỡ, đều phải dùng Phật pháp để
giải quyết, đó là đúng!
Trong tám khổ,
chẳng ai trốn khỏi sanh, lăo, bệnh, tử.
Sống một trăm
tuổi, vẫn phải chết. Sanh Khổ, chúng ta không
biết, ai nấy đều quên sạch. Trong kinh,
đức Phật dạy rơ những nỗi đau khổ
khi trẻ thơ sanh ra. Ở trong thai mẹ mười
tháng, kinh Phật h́nh dung nỗi khổ ấy bằng
từ ngữ “thai ngục”,
chẳng khác địa ngục cho mấy! Mẹ uống
một chén nước nóng, con như ở trong tám
địa ngục nóng. Mẹ uống một chén
nước đá, con như ở trong tám địa
ngục lạnh. Tâm t́nh, nhất cử, nhất
động của mẹ đều gây ảnh
hưởng rất lớn cho con. Con phải ở trong bào
thai mười tháng, ngạn ngữ nói là “sống một ngày giống như cả năm”;
đau khổ như thế đó. Lăo Khổ th́ chúng ta trông
thấy. Quư vị thấy nhiều cụ già, đặc
biệt là đến thăm viện dưỡng lăo, quư
vị sẽ thấy vận mạng bi thảm của
người già trong tuổi xế chiều, nhất
định quư vị sẽ nghĩ ngợi: “Ta về già có
gặp t́nh cảnh này hay không?” Nếu con cái bất
hiếu, chẳng phải là sẽ đưa quư vị vào
viện dưỡng lăo ư? Rất có thể! Không có con
cái, tuổi đă cao, chánh phủ cũng đưa quư
vị vào viện dưỡng lăo. Bên ngoại quốc, theo
quy chế của ngoại quốc, như ở Mỹ, Úc
Đại Lợi, những quốc gia ấy c̣n
đỡ, quư vị đă già, sau khi về hưu, quốc
gia cấp tiền dưỡng lăo, tiền chi dụng
mỗi tháng cứ đúng kỳ bèn gởi tới, về
phương diện đời sống vật chất
chẳng có vấn đề ǵ! Quá nửa là [con cái gởi
cha mẹ] vào viện dưỡng lăo, v́ quư vị tuổi
đă cao, cần có người chăm sóc, chẳng có cách
nào sống trong gia đ́nh của chính ḿnh. V́ thế, tự
ḿnh bán nhà, đến sống trong viện dưỡng lăo.
Cuộc sống vật chất có thể sống
được, nhưng chẳng có cuộc sống tinh
thần. Nếu quư vị hỏi những người già:
“T́nh trạng cuộc sống của quư vị là như
thế nào?” Họ sẽ trả lời bằng một câu:
“Ngồi ăn chờ chết”. Viện dưỡng lăo
đông người, nói chung, mỗi tuần có một, hai
trường hợp tử vong, được khiêng đi.
Hằng ngày trông thấy t́nh h́nh ấy, “ngày nào sẽ
đến lượt ta?” Quư vị nói xem, bi thảm
dường nào? Lăo Khổ đấy!
Cổ nhân Trung Quốc, lúc
tuổi cao bèn dưỡng lăo trong gia đ́nh, đông con,
lắm cháu, con cháu đầy nhà, hưởng niềm vui
thiên luân. V́ thế, xă hội cổ Trung Quốc đă
giải quyết vấn đề này. “Dục ấu” (育幼) là giáo dục trẻ nhỏ, do gia
tộc chịu trách nhiệm. Trường học do gia
tộc thành lập gọi là Tư Thục. Tư Thục
là trường học của con em trong gia tộc.
Trước kia là đại gia đ́nh, đông
người, nên học tṛ đi học cũng tới
mấy chục đứa. Gia tộc thông thường,
một nhà đại khái có khoảng ba trăm
người. Đại gia tộc, nhân đinh hưng
vượng, năm, sáu trăm người; nhân đinh ít
ỏi th́ cũng có chừng hai trăm người. Cho nên [việc
giáo dục trẻ thơ] do gia tộc chịu trách
nhiệm, chế độ ấy hay lắm! Đệ
Tử Quy là quy củ trong gia đ́nh. Quư vị nói xem, gia
đ́nh đông người như thế, thiếu quy
củ th́ làm sao đuợc! Chẳng phải là gia đ́nh
ấy sẽ rối beng ư? V́ thế, gia tộc
đều có gia đạo, có gia quy;
Đệ Tử Quy là gia quy chung. C̣n có chỗ khác nhau là do
mỗi gia tộc c̣n có [những quy chế] đặc
biệt, v́ sở học khác nhau, sự nghiệp kinh doanh
khác nhau, nên c̣n có những quy củ đặc biệt.
Những gia quy ấy do tổ tiên chế định,
đều chép trong gia phả!
Gia phả là lịch sử
của gia đ́nh, đời đời truyền thừa,
[ghi chép rành rẽ] ḍng họ của quư vị do từ
chỗ nào mà có, khi nào bắt đầu có ḍng họ này. lịch
sử gia đ́nh được ghi chép rất rơ ràng. Theo
cách nh́n của tôi, tuy không có căn cứ để
chứng minh, nhưng tôi tin tưởng, đại khái Hán
tộc tại Trung Quốc đều là “Viêm Hoàng thế trụ” (con cháu Viêm Hoàng), [Viêm là]
Viêm Đế (炎帝) thuộc họ Thần Nông, [c̣n Hoàng] là
Hoàng Đế (黃帝) [thuộc họ Hiên Viên]. Người
Hán đều là con cháu của Viêm Đế và Hoàng
Đế, một mạch truyền thừa! Trước
đó là Phục Hy Thị. Nhân dân trong thời Phục Hy
Thị sống cuộc đời nguyên thủy, săn
bắn để sinh nhai, ở trong hang núi, chưa có nhà
cửa. Đến thời Thần Nông Thị mới
bắt đầu biết trồng trọt, chẳng
lấy săn bắn làm chủ yếu nữa, mà sống
chủ yếu bằng cày cấy. Từ Thần Nông
đến Hoàng Đế là năm trăm năm. Theo
lịch sử ghi chép, Hoàng Đế mới kiến
tạo nhà cửa. Cung điện là do Hoàng Đế phát
minh. Năm ngàn năm lịch sử của Trung Quốc,
lịch sử lâu dài! Trong hai mươi lăm người
con của Hoàng Đế, mười bốn người
có “tánh thị”. Tánh thị[1]
thuở ấy là ǵ? Họ được phong tước
vị. Do vậy, chúng tôi tin tưởng, trước kia
đọc sách Bách Gia Tánh[2]
của Trung Quốc, hơn bốn trăm ḍng họ
đều là người một nhà. Trung Quốc hiện
nay có năm mươi sáu dân tộc, bao nhiêu ḍng họ?
Hơn hai vạn bốn ngàn ḍng họ; do đó, hiện
thời không phải là Bách Gia Tánh mà là Vạn Gia Tánh.
Quư vị thấy đó,
người đông như thế, nhiều sắc dân
như thế, cương vực to lớn như thế,
mấy ngàn năm chung sống ḥa thuận, bền vững
lâu dài, dựa vào ǵ? Dựa vào giáo dục. Bởi lẽ,
người Trung Quốc biết gia giáo, có đại gia
đ́nh, [xă hội Trung Hoa thời cổ] là xă hội nông
nghiệp, đông người dễ làm việc, theo
đuổi canh tác hay theo đuổi việc khai khẩn
đều cần nhân lực. Thuở đó, chẳng có máy
móc, đời đời truyền thừa cho đến
đầu thời Dân Quốc. Tại Trung Quốc, nông thôn
khá nhiều; thật vậy, hiện thời nói tới xă
hội cũ th́ là đại gia tộc. Quư vị thấy
đó, một thôn nọ gọi là Vương thôn (thôn
họ Vương), người cùng một gia tộc. Thôn
kia gọi là Trương thôn, cũng là người một
nhà. V́ vậy, một nhà dạy dỗ tốt đẹp,
gia trưởng có trách nhiệm, dạy dỗ người
trong một gia tộc tốt đẹp. Hễ nhà đă
tề, nước bèn trị! Biết dạy dỗ,
dạy cho ai nấy đều là người tốt,
đều biết hiếu, đễ, trung, tín, đều
biết lễ, nghĩa, liêm, sỉ, đều
hướng tới nhân ái, ḥa b́nh, xă hội làm sao bất
hảo cho được? V́ lẽ đó, xă hội an
định, chánh trị trong sáng, thiên hạ thái b́nh. Chúng ta
thấy xă hội hiện thời, nh́n ra toàn thể thế
giới, vấn đề quá ư là nhiều! V́ sao có
lắm vấn đề ngần ấy? Thiếu sót trong
giáo dục! Hiện thời trường học rất
nhiều, nhưng chẳng phải là giáo dục, mà là
thứ ǵ vậy? [Trường học] là cơ sở
để truyền thừa, huấn luyện khoa học và
công nghệ, tôi cảm thấy danh xưng ấy rất
thích hợp, chẳng thể gọi là “nhà trường”.
Trường học phải tiến hành giáo dục, giáo
dục nhằm dạy con người điều ǵ?
Dạy con người làm người, dạy luân lư,
[khiến cho] quư vị biết quan hệ giữa con người
với nhau. Dạy đạo đức, quư vị
biết con người cư xử với nhau như
thế nào. Dạy nhân quả, thật sự hiểu “thiện
nhân, thiện quả; ác nhân, ác báo”, tự quư vị biết
ước thúc khởi tâm động niệm, chẳng dám
làm chuyện xấu. Quư vị làm chuyện xấu, sẽ
có báo ứng.
Nhân quả là nói đến ba
đời. Con người không phải chỉ có một
đời này. Chúng ta có đời quá khứ, có đời
vị lai. Đời này khổ sở một chút,
đời sau tốt đẹp. Nếu đời này
hưởng hết phước, đời sau chịu
khổ. Người tin theo nhân quả sẽ nói là “phong thủy luân lưu xoay chuyển”.
V́ lẽ đó, chúng ta chẳng hâm mộ kẻ phú quư, v́
sao? Trong quá khứ, người đó tu nhân lành, nay
người ấy phải được phú quư.
Đời quá khứ, chúng ta chẳng tu nhân lành, đời
này phải sống khổ sở một chút. Hiểu rơ
đạo lư này, tuy cuộc sống của chúng ta thanh
bần, ta tu nhiều thiện nhân, tu thiện nhân rất
siêng năng, vận mạng của ta bèn chuyển biến
ngay trong đời này! Tuổi trẻ chịu khổ
một chút, tuổi già hưởng phước,
đời sau tốt đẹp hơn. Người
hiểu rơ đạo lư này, trong xă hội sẽ chẳng
cạnh tranh cùng kẻ khác. Cạnh tranh là phiền năo, là
tạo nghiệp. V́ thế, cổ nhân biết: “Cả đời đều là
mạng, chẳng do người nửa phần”, quư vị tranh chẳng
được! Nếu thật sự có thể tranh
được, Khổng Tử cũng tham gia cạnh tranh!
V́ sao Khổng Tử chẳng tranh giành? Khổng Tử
biết là tranh chẳng được. “Trong mạng đă có th́ rốt cuộc sẽ có,
trong mạng chẳng có, chớ cưỡng cầu”,
cầu chẳng được! Đối với
chuyện tu nhân, đức Phật đă giảng
đạo lư này, chúng ta phải hiểu rơ. Nhà Phật dùng
phương pháp ǵ để tu nhân? Dùng bố thí. Chúng ta hy
vọng phát tài, hăy tu tài bố thí. Hy vọng
được thông minh, trí huệ, hăy tu pháp bố thí. Hy
vọng khỏe mạnh, sống lâu, hăy tu vô úy bố thí;
đức Phật dạy chúng ta những điều
ấy. V́ thế, “trong cửa
nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Đức Phật
dạy quư vị phương pháp và đạo lư, bản thân
quư vị nương theo đạo lư ấy để tu
học, quả báo bèn hiện tiền. Phát tài, thông minh, trí
huệ, khỏe mạnh, sống lâu, có phải là do
Phật, Bồ Tát ban cho quư vị hay không? Chẳng
phải! Phật, Bồ Tát ban cho quư vị lư luận,
phương pháp, quư vị tự cầu nhiều
phước. Chớ nên không biết điều này!
Đối với Khổ,
trừ sanh, lăo, bệnh, tử ra, c̣n có Ái Biệt Ly Khổ.
Người quư vị ưa thích, chuyện quư vị ưa
chuộng, hoàn cảnh cuộc sống ưa thích
đều cứ phải chia ĺa. Quư vị chẳng có cách
nào hưởng thụ trong một thời gian dài. Đó là
Ái Biệt Ly Khổ. Kế đó, đức Phật nói
tới Oán Tắng Hội Khổ, oan gia đối
đầu chẳng muốn gặp gỡ, mà cứ
thường chạm mặt! Loại thứ ba là Cầu
Bất Đắc Khổ. Loại cuối cùng trong tám
khổ là Ngũ Ấm Xí Thịnh Khổ. Ngũ Ấm Xí
Thịnh là ǵ? Là áp lực (stress) như người
hiện thời đă nói; lo lắng, vướng mắc,
bận ḷng, mệt trí đều thuộc về loại
này. Cuộc sống tinh thần và thân thể của quư
vị rất khổ cực. Ai có thể ĺa khỏi tám
thứ ấy? Đức Phật nói chư thiên Dục
Giới có đủ tám nỗi khổ ấy. Chư thiên
Sắc Giới đă ĺa dục, nhưng trọn chẳng
đoạn. Họ buông xuống, tạm thời buông
xuống, tám nỗi khổ ấy bèn chẳng c̣n nữa.
Con người sanh lên trời chẳng phải là thai sanh,
nên họ chẳng có Sanh Khổ. Từ trời Đao
Lợi trở lên đều là hóa sanh. Nếu quư vị tu
định, đắc Thiền Định, tu đă thành
công, bèn sanh trong Sắc Giới Thiên. Sắc Giới Thiên
chẳng có những nỗi khổ ấy, nhưng c̣n có
thọ mạng. Khi thọ mạng đă hết, sự
khổ ấy bèn hiện tiền, năm tướng suy
hiện tiền. Khi đó, thời gian năm tướng
suy hiện tiền chẳng dài, trong kinh thường nói là
bảy ngày, nhưng trong bảy ngày ấy, khổ chẳng
thể nói nổi. Hoại Khổ đấy! Thân sắp
hư hoại, chết rồi th́ thân phải hư
hoại. Cung điện vị ấy cư trụ cũng
bị hư hoại, vị ấy chính mắt thấy. Vô
Sắc Giới Thiên là phàm phu cao cấp trong lục
đạo, họ chẳng cần thân thể, giống
như Lăo Tử của Trung Quốc đă nói: “Ngô hữu đại hoạn,
vị ngô hữu thân”, [tức là] Ngài nói Ta có mối lo
nghĩ rất lớn, lo ǵ vậy? Ta có thân thể.
Người thông minh chẳng cần đến thân
thể; chẳng có thân thể th́ đương nhiên
cũng không cần chỗ cư trụ. V́ thế, chúng ta
có thể nói Vô Sắc Giới Thiên là “linh giới” (cơi của linh hồn), v́ họ có
tinh thần, nhưng chẳng có vật chất. Họ có
khổ hay không? Có, khổ ǵ vậy? Hành Khổ. Cảnh
giới của họ tốt đẹp, nhưng chẳng
thể giữ được vĩnh viễn, hoàn toàn
cậy vào Định lực của họ. Định
lực của họ mất đi th́ cảnh giới
ấy chẳng c̣n nữa. Đó là Hành Khổ. Mỗi sát-na
[trôi qua] là họ càng gần với điểm kết thúc,
nhưng họ chẳng thể ngăn chặn, đó là
Hành, tức là họ chẳng thể giữ vĩnh
viễn cảnh giới thù thắng như vậy. Do
đó, đức Phật nói “ba
cơi đều khổ”. Quư vị thấy Dục Giới
có tám khổ, Sắc Giới có Hoại Khổ, Vô Sắc
Giới có Hành Khổ; đức Phật thường nói
là “ba cơi đều khổ”.
Qua Tứ Đế, đức
Phật đă nêu bày chân tướng sự thật ấy,
mọi người hiểu rơ, suy nghĩ sẽ thấy
đúng là khổ! Nỗi khổ ấy do đâu mà có?
Khổ do Tập mà có. Tập là ǵ? Gom góp hết thảy các
nhân thiện và bất thiện. Gom góp thiện nhân, sanh trong
ba đường lành. Nói Tam Khổ và Bát Khổ
đều là nói về tam thiện đạo. Nếu gom
góp những cái nhân bất thiện, th́ v́ tự tư
tự lợi, làm những chuyện ḥng đạt
được tiếng tăm, lợi dưỡng, tham,
sân, si, mạn, làm những thứ ấy, đời sau quư
vị sẽ vào trong ba ác đạo, biến thành súc sanh,
biến thành ngạ quỷ, biến thành địa
ngục, càng là khổ chẳng thể nói nổi! Giảng
rơ ràng nhân và quả của lục đạo, chúng ta
liền biết. Người thật sự thông minh, giác
ngộ, sẽ nghĩ: “Ta chẳng muốn trụ trong
lục đạo, có cách nào vượt thoát lục đạo
hay không?” Đức Phật bảo người ấy:
“Có”. Vượt thoát lục đạo th́ dùng phương
pháp ǵ? Quả là ǵ? Quả là Diệt, Diệt chính là Niết
Bàn. Niết Bàn (Nirvāṇa)
là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là
Diệt, diệt ǵ? Diệt khổ, diệt phiền năo
tức là diệt khổ. Phiền năo là nhân, Tam Khổ và Bát
Khổ là quả; nhân đă diệt, quả đương
nhiên chẳng c̣n. Phải dùng phương pháp ǵ để
diệt những cái nhân ấy? Tu Đạo. V́ thế,
Diệt là quả thuộc về pháp xuất thế.
Đạo là cái nhân của pháp xuất thế. Quư vị
thấy đó: [Tứ Đế là] nhân và quả của
pháp thế gian và xuất thế gian. Đức Phật
giảng những đạo lư và phương pháp này cho
người sơ học. Đó là Tứ Đế.
Thuở ấy, sau khi Thích Ca Mâu
Ni Phật thành Phật, thuyết pháp cho mọi
người, chủ yếu giảng pháp này, giảng bao
nhiêu năm? Mười hai năm, dạy người ta
phải đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc.
Hoặc (惑)
là ngu si, do ngu si mới làm chuyện sai trái. Kiến (見) là sai lầm
về mặt kiến giải, Tư (思) là sai lầm về tư tưởng.
Nói cách khác, quư vị suốt ngày từ sáng đến
tối, từ đầu năm đến cuối năm,
những ǵ quư vị thấy đều là sai lầm,
những ǵ quư vị nghĩ đều là sai lầm.
Kiến giải và tư tưởng sai lầm nên tạo
tội nghiệp, quả báo là trong tam đồ. Do vậy,
đức Phật dạy chúng ta, Kiến Hoặc là cách
nh́n của quư vị sai lầm. Đức Phật quy
nạp vô lượng vô biên sai lầm [thành hai loại
lớn] là kiến giải sai lầm và tư tưởng
sai lầm, quy nạp [Kiến Hoặc] thành năm loại
lớn cho dễ dạy. Sai lầm thứ nhất, chúng ta
nói đến kiến giải, quư vị đă thấy sai.
Sai lầm thứ nhất là quư vị lầm tưởng
cái thân là chính ḿnh. Điều này gọi là Thân Kiến, coi
cái thân là chính ḿnh, sai mất rồi! Thân chẳng phải là
chính ḿnh. Thân này chẳng phải là ta, ta chẳng phải là
thân. Thân là ǵ? Trước chữ Thân, bèn thêm vào một
thứ nữa, “thân của ta”, [hiểu như vậy] là
đúng. Nó chẳng phải là ta. Giống như chúng ta
mặc quần áo, quần áo của ta, đó là đúng, quần
áo chẳng phải là ta. Quư vị thấy lục
đạo chúng sanh mê muội sâu đậm, có ai chẳng
coi thân là chính ḿnh? Đều v́ thân này mà tạo nghiệp,
sau này chịu khổ báo vô cùng, sai mất rồi! Nếu
quư vị biết thân chẳng phải là ta, quư vị
thấy đó, đầu tiên là buông tự tư tự
lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng
xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống, phiền năo
của quư vị bèn ít đi quá nửa! Con người
đều v́ cái thân này mà tạo vô lượng vô biên
tội nghiệp, tạo giết, trộm, dâm, dối,
chẳng phải đều là v́ thân này ư? Thân chẳng
phải là chính ḿnh, quư vị thấy có oan uổng hay không?
Đạo lư này rất sâu, chẳng phải là mấy câu
đơn giản bèn có thể nói rơ ràng. Thích Ca Mâu Ni
Phật giảng cho mọi người suốt
mười hai năm, có thể thấy những thứ này
sâu xa, phải nghiêm túc khéo học. Đó là kiến giải
sai lầm đầu tiên.
Thứ hai là Biên Kiến, Biên (邊) là nhị biên
(hai bên). Các nhà khoa học hiện thời nói đến
“tương đối”, tương đối là Biên
Kiến. Tất cả hết thảy các pháp đều là
đối lập. Đối lập với lớn là
nhỏ, đối lập với dài là ngắn, đối
lập với chánh là tà. Quư vị thấy đều là
tương đối. Đối lập với ta là
người khác, toàn là tương đối. Quan niệm
ấy là sai lầm, v́ sao? Chẳng biết khắp pháp
giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể, nên
tự nhiên nẩy sanh đối lập. Chúng ta nói
đơn giản là “đối lập với
người, đối lập với sự, đối
lập với hết thảy vạn vật”. Đối lập
chẳng phải là chuyện nhỏ, mà là chuyện to tát,
tất cả hết thảy các hành vi sai lầm
đều phát sanh từ chỗ này. Thế giới
hiện thời có quá nhiều xung đột, xung
đột do đâu mà có? Do mâu thuẫn mà có, do lợi
hại mà có. Mâu thuẫn và lợi hại do đâu mà có? Do
đối lập mà có. Quư vị đi t́m cội nguồn,
sẽ thấy là đối lập. Nếu chẳng có
đối lập, sẽ chẳng có mâu thuẫn, chẳng
có lợi hại, nên chẳng có xung đột. Xung
đột ở một mức độ cao hơn sẽ
là đấu tranh, mức cao hơn nữa của
đấu tranh là chiến tranh. V́ thế, đối
lập là cội nguồn của hết thảy nhân
họa (tai họa do con người gây ra), đức
Phật dạy phải ĺa khỏi nó. Đức Phật
lại nói: Thành kiến là sai lầm. Thành kiến là ǵ?
Tự cho ḿnh là đúng, ta đúng, kẻ khác sai quấy,
đó là thành kiến. Thành kiến được chia ra:
Thành kiến đối với nhân và thành kiến
đối với quả, chia thành hai loại. Thành kiến
đối với nhân gọi là Giới Thủ Kiến,
thành kiến đối với quả là Kiến Thủ
Kiến; những điều này biến thành hành vi, tạo
tác hết thảy thiện và bất thiện. Loại
cuối cùng là Tà Kiến, tức là tất cả những
cách nh́n sai lầm ở ngoài bốn loại trên đây
đều gộp vào trong Tà Kiến.
Nếu quư vị buông xuống,
đoạn trừ năm thứ kiến giải sai
lầm này, bèn chứng quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu
Thừa. Tiểu Thừa có bốn quả, quư vị đă
đạt được quả thứ nhất. Quư
vị đạt tới Tu Đà Hoàn, trí huệ và năng
lực của quư vị được khôi phục đôi
chút. Trong Phật pháp nói là chút ít, nhưng khi người
thế gian chúng ta thấy [sự khôi phục ấy, bèn ca
ngợi] quư vị rất phi phàm! Trong sáu thứ thần
thông, quư vị đắc Thiên Nhăn và Thiên Nhĩ, th́ cũng
là nói: Người khác nh́n không thấy những ǵ quư vị
có thể thấy. Quư vị có thể thấy quỷ
thần, có thể thấy thiên thần. Đó là tiểu
thông, năng lực hoàn toàn chẳng to, nhưng mạnh
mẽ hơn người b́nh thường rất
nhiều, tường vách chẳng thể chướng
ngại. Những người ở pḥng sát vách đang làm
ǵ, quư vị bèn thấy thấu suốt, đều trông
thấy. Chúng ta nh́n xuống mỗi tầng dưới
trong ṭa cao ốc này, họ đang làm ǵ, quư vị cũng thấy
rất rơ ràng. Quư vị chỉ cần buông xuống năm
thứ Kiến Hoặc, năng lực ấy bèn khôi
phục.
Tư Hoặc là cách nghĩ sai
lầm, những thứ ǵ bị nghĩ lầm? Tham là suy
nghĩ sai lầm, sân khuể cũng sai lầm, ngu si
cũng sai lầm, ngạo mạn cũng sai lầm, hoài
nghi cũng sai lầm. V́ sao? Trong tâm thanh tịnh không có
những thứ ấy. Những thứ ấy là bệnh
căn của hết thảy các điều bất
thiện. Do vậy, trong Phật pháp, chúng c̣n
được gọi là Tam Độc. Tham, sân, si là Tam
Độc. Kể thêm Mạn và Nghi, bèn thành Ngũ
Độc. Những thứ độc ấy là bệnh
độc (virus), đúng là virus, con người ngă
bệnh, v́ sao ngă bệnh? V́ trong tâm quư vị có năm
thứ bệnh độc ấy, bên ngoài c̣n phải có cái
nhân gây ra bệnh. Đó là cảm ứng, quư vị bèn ngă
bệnh. Nếu bên trong đă dứt trừ năm thứ
bệnh độc ấy, hết thảy các thứ cảm
nhiễm bên ngoài sẽ chẳng thể cảm nhiễm! Y
học bảo là “quư vị có năng lực miễn
dịch cao, nên chẳng bị lây bệnh”. Năm thứ
ấy được gọi là Tư Phiền Năo, tức là
quư vị đă nghĩ sai rồi. Chớ nên có ư niệm
tham, chớ nên có niệm sân khuể, chớ nên ngu si,
chớ nên ngạo mạn, chớ nên hoài nghi, tâm của quư
vị bèn khôi phục rất b́nh thường. Tâm b́nh thường
là ǵ? Tâm thanh tịnh. Chúng ta thấy tựa đề kinh
này có chữ Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác, quư vị
đă đạt được điều thứ
nhất. Tâm thanh tịnh hiện tiền là quả báo
Tiểu Thừa. Quư vị đă thành tựu Tiểu
Thừa, c̣n b́nh đẳng là [điều chứng
đắc] của Bồ Tát học
Đại Thừa. V́ thế, quư vị thấy: Kiến
Tư phiền năo đă đoạn th́ tham, sân, si, mạn,
nghi chẳng c̣n nữa. Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến
Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến
chẳng c̣n, quư vị bèn vượt thoát lục
đạo luân hồi, đắc thanh tịnh tâm. Thanh
tịnh tâm là chân tâm.
“Xuất
Phần Đoạn Sanh Tử”: Phần Đoạn là
lục đạo. Lục đạo là từng giai
đoạn một. Lần này chúng ta được làm thân
người, trụ trong thân người chừng ấy
năm, từ sống đến chết là một giai
đoạn, đó là Phần Đoạn Sanh Tử.
Thật ra, nói lời thật với quư vị: Chẳng có
sanh tử! Sanh tử là ǵ? Thân thể sanh tử. V́ sao
bảo quư vị “chẳng có sanh tử?” Linh hồn của
quư vị bất tử! Hiện thời, trong những năm gần đây, tức là trong ba
mươi năm gần đây nhất, thôi miên hết
sức phổ biến trong thế giới phương Tây.
Các bác sĩ tâm lư đă tiến hành thôi miên, chứng minh linh
hồn con người bất tử. Họ cũng
chứng tỏ người sau khi chết sẽ
đầu thai. Từ thôi miên, có thể liễu giải con
người đă qua lại thế gian này rất nhiều
đời, xác thực là có lúc trong đời quá khứ làm
người, lần này lại đến nhân gian. C̣n có
trường hợp đời quá khứ làm súc sanh,
đời này sanh vào nhân gian. Họ c̣n phát hiện
đời trước sống trên một tinh cầu khác,
đời này đến địa
cầu. Chúng ta xem những báo cáo nghiên cứu của các nhà
thôi miên, từ các báo cáo của họ, quư vị bèn khẳng
định luân hồi là thật, chẳng giả. Do
vậy, chứng minh con người chẳng chết.
Kẻ b́nh phàm nói
đến “linh hồn”, nhưng Phật giáo chẳng
gọi nó “linh hồn”, mà
gọi nó là “thần thức”. V́ nó có thể biến,
những tướng được hiện là cái
được biến (sở biến), nó chẳng
chết. Gọi là “linh hồn”, nhưng thật ra nó
chẳng linh, nó bị mê, phải gọi là “mê hồn” th́ mới đúng, chẳng thể
gọi nó là linh hồn, nó
chẳng linh! Nếu nó linh, nó có thể chọn lựa
nơi rất tốt đẹp để đi
đầu thai. V́ sao đến đầu thai trong nhà
người bần cùng, nghèo khổ? Nó chẳng linh! V́ sao
đến đầu thai trong loài súc sanh, lại c̣n
đến đầu thai trong loài ngạ quỷ hay trong
địa ngục? Có thể thấy nó chẳng linh, mà
đúng là mê hoặc, điên đảo. Đă giác ngộ,
bèn gọi là “linh tánh”; khi nào người ấy giác ngộ?
Khi người ấy thành Thanh Văn hay Bích Chi Phật bèn
giác ngộ. Thanh Văn là A La Hán, người ấy
chứng đắc A La Hán quả, vượt thoát lục
đạo, vĩnh viễn chẳng c̣n trở vào lục
đạo. Nếu người ấy vào trong lục
đạo, người ấy rất sáng suốt,
chẳng mê. Người ấy đến làm ǵ? Đến
độ chúng sanh, chẳng phải là đến
để chịu báo, v́ cái nhân của lục đạo
đă đoạn mất, cái nhân ấy là Kiến Tư
phiền năo; người ấy đă đoạn hết
Kiến Tư phiền năo, nên chẳng có cái nhân của
lục đạo. [Hàng Bồ Tát] vào trong lục
đạo để độ chúng sanh. Do lẽ đó, “xuất Phần Đoạn Sanh
Tử” là [thoát khỏi] sự sanh tử trong lục
đạo.
“Nhi
nhập ư Niết Bàn giả” (mà nhập Niết Bàn),
Niết Bàn là dịch âm một danh từ trong tiếng
Phạn của Ấn Độ, có nghĩa là “bất sanh, bất diệt”.
Sanh tử trong lục đạo chẳng c̣n nữa,
bất sanh, bất diệt. Người ấy đă
chứng đắc bất sanh, bất diệt, nhưng
chẳng rốt ráo, chưa viên măn,
[đó là] Tiểu Thừa Niết Bàn. Đức Phật
chứng đắc Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinirvāṇa),
đấy mới là rốt ráo. Niết Bàn là ĺa
khổ, được vui thật sự. Tịnh Ảnh
Sớ chép: “Như Lai sở
thuyết ngôn giáo danh Thanh. Xan thanh ngộ giải, cố
viết Thanh Văn” (ngôn giáo do đức Như Lai
đă nói được gọi là Thanh. Do nếm pháp vị
của Thanh mà ngộ giải, nên gọi là Thanh Văn).
Đây là trích dẫn cách giảng trong Tịnh Ảnh
Sớ, ư nghĩa đại khái giống nhau, đều là
nghe đức Phật giảng kinh, thuyết pháp, bèn khai
ngộ. “Xan thanh ngộ
giải”: Xan (餐) là ăn cơm, tức là nói đến
pháp vị. [Xan Thanh] là nếm trải pháp vị. Đây là
tỷ dụ, nghe Thanh, tức là nghe thanh giáo (giáo huấn
bằng âm thanh) và ngôn luận của Thích Ca Mâu Ni Phật
bèn khai ngộ. Khai ngộ là buông Kiến Tư phiền năo
xuống. Nếu khai ngộ mà chẳng buông xuống, vô
dụng, đó là giải ngộ, không thoát khỏi lục
đạo luân hồi. Khi khai ngộ, thật sự buông
Kiến Tư phiền năo xuống, chẳng thấy
lục đạo nữa. Lục đạo là giả,
chẳng thật, giống như giấc mộng, đă
tỉnh giấc bèn gọi là Thanh Văn.
Bích Chi Phật là ǵ? Bích Chi (Pratyeka)
là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán, có nghĩa là
Nhân Duyên. Nhân duyên ấy gồm mười hai mối nhân
duyên, “Phật” dịch là
Giác. “Cố cựu dịch Bích
Chi Phật vi Duyên Giác” (nên dịch theo lối cổ th́
là Duyên Giác). Ngài giác ngộ nhờ nhân duyên, chứ không
nhất định cậy vào Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
kinh, thuyết pháp. Nói thông thường, ngộ tánh của
Ngài rất cao, chúng ta thường nói là những
“đứa bé thiên tài”. Chẳng nhất định gặp
nhân duyên nào, Ngài khai ngộ, hiểu minh bạch ngay lập
tức, hoặc là Ngài thấy, nghe, tiếp xúc [các nhân duyên
bèn khai ngộ]. Những vị ấy suốt một
đời này, tuy chẳng nghe đức Phật giảng
kinh, thuyết pháp, nhưng khẳng định là trong
đời quá khứ đă từng nghe, có thiện căn,
nên gặp duyên bèn có thể khai ngộ. Nếu vị
ấy không có thiện căn, duyên dẫu nhiều
đến mấy, vẫn chẳng thể khai ngộ! “Tân dịch vi Độc Giác”
(dịch theo lối mới là Độc Giác), Độc
Giác càng thông minh hơn nữa. Theo sách Đại Thừa
Nghĩa Chương đă giảng, Duyên Giác có hai cách
giải thích. Loại thứ nhất là “quán Thập Nhị Nhân Duyên, đoạn Hoặc,
chứng Chân, tùng duyên đắc giác, cố danh Duyên Giác”
(quán mười hai nhân duyên, đoạn Hoặc, chứng
Chân, do duyên mà giác ngộ, nên gọi là
Duyên Giác). Mười hai nhân duyên, đầu tiên là Vô Minh (Avidyā). Vô Minh duyên Hành, Hành duyên
Thức. Vô Minh ở đây chẳng phải là Căn
Bản Vô Minh, mà là Chi Mạt Vô Minh, cũng có nghĩa
là những vô minh đă được nói trong lục
đạo đều rất thô, hoàn toàn chẳng giống
Căn Bản Vô Minh, phá được Căn Bản Vô Minh
bèn thành Phật. Trong lục đạo, loại vô minh này
(Chi Mạt Vô Minh) biến hiện lục đạo. Khi phá
được loại vô minh này,
lục đạo chẳng c̣n nữa. Do vô minh, quư vị
mới tạo nghiệp. “Hành”
(Saṅkhāra) là tạo nghiệp
trong đời quá khứ. Mười hai nhân duyên nói về
nhân quả ba đời, Vô Minh và Hành là nhân quả
đời quá khứ. Có nhân trong đời quá khứ, nên
quư vị mới đến đầu thai. “Thức” (Vijñāna)
là thần thức, chúng ta thường gọi nó là “linh
hồn”. Linh hồn đến đầu thai, t́m cha
mẹ, cha mẹ và kẻ ấy có duyên. Trong phần
trước đă nói, có ân, có oán, có nợ nần, có
những mối quan hệ ấy, nên kẻ đó bèn
đến. Chẳng có những mối quan hệ ấy,
kẻ đó sẽ chẳng t́m quư vị. V́ thế, con cái
là duyên. Tôi nhớ năm 1977, lần đầu tiên tôi
đến Hương Cảng giảng kinh tại
giảng đường của lăo ḥa thượng Thọ
Dă tại đường Lam Đường (Blue Pool Road)
ở Hương Cảng, tức là Quang Minh Giảng Đường.
Lăo ḥa thượng Thọ Dă học Hoa Nghiêm, tôi giảng
tại chỗ Ngài hai tháng, giảng Lăng Nghiêm. Trong
giảng đường, có một cặp câu đối do
chính lăo pháp sư viết. Vế trên là “phu thê thị duyên, hữu thiện duyên, hữu ác
duyên, oan oan tương báo” (vợ chồng là duyên, có
thiện duyên, có ác duyên, oan oan tương báo), nói về [mối
quan hệ] vợ chồng. Vế dưới là “nhi nữ thị trái, hữu
thảo trái, hữu hoàn trái, vô trái bất lai” (con cái là
nợ, có đ̣i nợ, có trả nợ, không nợ
chẳng đến). Câu đối ấy rất đáng
cảnh tỉnh. Tôi ở nơi ấy hai tháng, mỗi ngày đều
thấy, nên có thể nhớ kỹ đôi câu đối
ấy. Lúc đó, lăo pháp sư đă di đân sang Mỹ; khoảng
mấy năm sau, tôi cũng di dân đến Mỹ, gặp
Ngài tại Nữu Ước, lăo pháp sư và tôi rất có
duyên phận. Do vậy, trong thế gian này, phải thấy
thấu suốt sự việc, phải tham thấu th́ quư
vị mới có thể thật sự hạ quyết tâm
chẳng muốn luân hồi nữa, chẳng làm chuyện
ngốc nghếch ấy!
Quư vị thấy Thức,
Thức (Vijñāna) là
thần thức, [gọi thông tục là] linh hồn đi
đầu thai. Đầu thai trong thai mẹ bèn gọi là
Danh Sắc, có h́nh dạng một người chưa phát
triển đầy đủ, thường nói là [thai
mới tượng h́nh] hai ba tuần, tức là cấn thai
hai ba tuần, chưa có h́nh dạng con người, nên
gọi là Danh Sắc (Nāmarūpa).
Danh là ǵ? Danh là tinh thần, nó có Thọ, Tưởng, Hành,
Thức. Sắc là nó có nhục thể, nhưng chưa có
h́nh dạng con người hoàn bị. Dần
dà, khoảng chừng năm sáu tháng, bèn có h́nh dạng con
người, có đầu, có mắt, quư vị có thể
nh́n thấy; khi ấy, chẳng gọi là Danh Sắc
nữa, mà gọi là Lục Nhập (Ṣaḍāyatana).
Nó giống như con người, nhưng vẫn ở
trong tử cung của mẹ, chúng ta thường nói là “trụ thai”. Mười tháng,
thời gian trụ thai đă măn, bèn ra khỏi thai,
được sanh ra. Sanh ra là ǵ? Sanh ra chẳng gọi là “xuất sanh”, mà gọi là Xúc
(Sparśa), v́ thân thể của nó
tiếp xúc với ngoại giới, có cảm nhận,
[đó là] Thọ (Vedanā), nó có Ái (Tṛṣṇā),
có Thủ (Upādāna), có Hữu (Bhava). Nói cách khác, những
tập khí phiền năo của nó khởi lên hiện
hành. Ái, Thủ, Hữu là suốt cả một đời,
từ lúc quư vị lọt ḷng cho đến khi già chết,
suốt một đời [luôn là Ái, Thủ, Hữu]. Sáu
căn của quư vị tiếp xúc cảnh giới bên ngoài,
điều ǵ hợp với ư ḿnh, quư vị bèn tham ái. Từ
tham ái, quư vị mong đạt được; đạt
được là Thủ. Ta muốn khống chế nó,
muốn chiếm hữu nó, đó là hành vi. Có hành vi ấy
th́ là Hữu. Hữu là ǵ? Có nghiệp, trong A Lại Da
Thức bèn kết nghiệp. Nghiệp có thiện nghiệp
và ác nghiệp, nghiệp lực dẫn dắt quư vị thọ
báo trong đời sau. V́ thế, đời sau lại có
sanh, lại có lăo tử, vĩnh viễn tuần hoàn.
Mười hai điều này
trong luân hồi, được gọi là Thập Nhị
Luân (Dvādaśanidāna),
đó là nhân duyên. Chỉ cần phá vỡ được
một thứ trong mười hai món, toàn thể sẽ
bị phá, đoạn hết; nhưng phải phá nơi
nhân, chứ không thể phá nơi quả. Đối
với nhân, quư vị biết là hai điều
trước, tức là Vô Minh và Hành thuộc về đời
quá khứ, chúng ta chẳng có cách nào trở lại
đời quá khứ để giải quyết vấn
đề. Sanh, lăo, tử là vị lai, nói đến ba
đời, cũng chẳng có cách nào! Vị
lai vẫn chưa xảy tới, chúng ta cũng chẳng
thể giải quyết vấn đề trong vị lai,
phải [giải quyết] ngay trong hiện tại. Giải
quyết vấn đề ngay trong hiện tại th́
nơi nhân chỉ có ba chữ. Do Xúc là quả báo, chẳng
thể giải quyết nơi quả. Người
giải quyết nơi quả là ǵ? Tự sát là giải
quyết nơi quả; tự sát chẳng thể giải
quyết vấn đề. Giải quyết nơi nhân bèn
có ba thứ là Ái, Thủ, Hữu. Có thể đoạn
được một trong ba điều ấy, bèn
chứng quả Bích Chi Phật, chư vị phải
biết điều này. Ái là mê hoặc, quư vị chẳng
liễu giải chân tướng sự thật. Thủ là
quư vị tạo tác, nói theo hiện thời là quư vị
muốn khống chế, muốn chiếm hữu, quư
vị đă tạo nghiệp! Khống chế tạo
nghiệp nhẹ, chiếm hữu tạo nghiệp
nặng. Trong tạo nghiệp, lại có thiện, ác, có
thiện nghiệp, có ác nghiệp, những điều này
đều gọi là Hữu. Trong đời này, quư vị
lại tạo nhân, đời sau phải chịu quả
báo. Do đó, đời sau lại có sanh, lại có lăo
tử. Người thông minh tâm địa thanh tịnh, b́nh
đẳng, đổ công dốc sức đoạn
trừ Ái. Trong một chữ Ái, bao gồm Tam Độc,
tham, sân, si, v́ sao? Ưa thích bèn yêu mến, chẳng ưa
thích bèn hận, hận là sân. Cội rễ của tham dục
và sân khuể là ngu si. Do đó, một chữ Ái bao gồm
tham, sân, si. Thủ là hành động, Ái là ư niệm, c̣n
chưa có hành động, bao gồm oán hận, sân khuể,
nhưng chưa phát tác. Trong tâm có ư niệm ấy, nhưng
chưa phát tác. Thủ là đă phát tác; hễ phát tác,
nghiệp bèn thành tựu. Cổ nhân nói: “Muôn thứ chẳng mang được, chỉ có
nghiệp theo thân”, “có” là
nghiệp, quư vị có nghiệp. Quư vị đă tạo
nghiệp, đời sau có quả báo, đời sau lại
có sanh, đă sanh bèn có lăo tử. Đó là mười hai
chữ!
Đức Phật giảng
mười hai nhân duyên, những người ấy thông
minh hơn Thanh Văn, Thanh Văn phải giảng Tứ
Đế th́ mới có thể khai ngộ. Đức
Phật giảng những điều này đơn giản
hơn Tứ Đế, vừa nói, người ấy bèn
hiểu rơ. Nếu đoạn từ Ái, sẽ là
người thông minh nhất, thật sự dốc sức
từ Kiến Tư phiền năo, sẽ đoạn
sạch làu làu. Tập khí phiền năo, nghiệp
chướng sâu nặng, đoạn từ Thủ. Tuy có ư
niệm, nhưng chẳng tạo các nghiệp ấy;
biết tạo nghiệp th́ về sau phải chịu báo,
nên chẳng Thủ, chẳng có hành động. Có ư
niệm, nhưng không có hành động th́ cũng
được, cũng có thể vượt thoát. Loại
thứ ba rất cao, quư vị thấy nhé, người
ấy có Ái, có Thủ, nhưng sau đó là ǵ? Người
ấy chẳng có Hữu, lợi hại lắm! Đó là
ǵ? Tâm địa người ấy thanh tịnh, chẳng
lưu lại dấu vết, kẻ b́nh phàm chẳng
thể làm được chuyện này; do đó, đây là
một người tu hành chân chánh. Người tu hành chân
chánh v́ sao c̣n có Ái và Thủ? Ái và Thủ là phương
tiện thiện xảo. Đại đa số chẳng
có Hữu, đó là ǵ? Là Bồ Tát đến thế gian này,
nên dùng thân Thanh Văn để đắc độ,
liền hiện thân Thanh Văn để độ thoát.
Nên dùng thân Duyên Giác để độ người khác,
liền hiện thân Duyên Giác để độ. Đó là bậc
Bồ Tát tái lai, kẻ b́nh phàm chẳng thể nào làm
được! Trong tiểu thuyết, chư vị
thấy Tế Công có Ái, có Thủ,
nhưng chẳng có Hữu. Lợi hại lắm, chẳng
phải là chuyện kẻ b́nh phàm ḥng làm được.
Ngài cười h́ h́, hà hà với mọi người,
cũng ăn, uống, vui chơi, nhưng người khác
tạo tội nghiệp, Ngài chẳng tạo tội
nghiệp, lợi hại lắm! V́ sao? Tâm địa Ngài
thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Ngài cùng
mọi người chơi đùa, nhưng Ngài
chẳng động niệm. Trong ư Ngài, chẳng có phân
biệt, chấp trước, người như vậy
th́ mới được!
Tế Công là
nhân vật có thật, thật sự có chuyện ấy,
chẳng giả. Ngài sống vào thời Tống, sanh nhằm
đời Nam Tống, cùng thời với Nhạc Phi,
họ đều là người thời ấy. Bố
Đại ḥa thượng cũng là người thời
ấy. Nhưng vào thời đầu Dân Quốc, lại
xuất hiện một vị dường như chẳng
khác ǵ Tế Công, được gọi là Kim Sơn
Hoạt Phật (Phật sống chùa Kim Sơn). Vị này
có thật, chẳng giả. Ngài cũng là người
xuất gia, lôi thôi, lếch thếch, ở lẫn lộn
với người tại gia, cũng là có ăn, có
uống, có cười cợt, có nói năng ồn ào,
nhưng chẳng nhiễm mảy trần. Thuở trẻ,
tôi giảng kinh tại Đài Bắc. Lăo pháp sư Lạc
Quan là người thuộc thế hệ trưởng
bối của chúng tôi, nay Ngài đă mất, bảo tôi
Sư đă từng gặp gỡ Kim Sơn Hoạt
Phật. Kim Sơn Hoạt Phật có pháp danh là Diệu
Thiện. Pháp sư Diệu Thiện ở cùng một
chỗ với Sư suốt bốn tháng, nên Sư biết
Ngài rất rơ. Sư nói [pháp sư
Diệu Thiện] quả thật giống như Tế
Công, lôi thôi, ăn vận kỳ quặc, thật sự
đi một đôi hài cỏ đă rách, khoác một cái áo
dài, bên trong mặc một cái quần ngắn, quanh năm
suốt tháng mặc bộ quần áo ấy, tới
tiết Đông cũng chẳng lạnh, trời Hè cũng
chẳng nóng, rất lợi hại! Suốt
đời Ngài chẳng tắm rửa, nhưng trên
người có hương thơm hoa
sen. Cả đời không tắm rửa, cũng chẳng
giặt quần áo, nên cổ áo đóng đầy những
thứ đen x́, dơ bẩn, nhưng quư vị ngửi
th́ vẫn có mùi thơm. Lại c̣n khi ngửi, có rất nhiều
người bị bệnh vừa ngửi liền lành bệnh,
[ngửi mùi] có thể trị bệnh!
Đúng là Ngài có thần thông. Lăo
ḥa thượng Lạc Quan bảo tôi: “Nếu ngài Diệu Thiện chẳng phải là A La
Hán th́ tối thiểu cũng là A Na Hàm”. V́ Lậu
Tận Thông [phàm nhân sẽ] chẳng nh́n ra. Ngài có thể
phân thân, cùng một lúc thấy Ngài đến chỗ này, mà
ở chỗ khác, Ngài cũng tụ hội với những
người ở đó, Ngài có thể phân thân! Về sau,
người ta thấy: “Ngày nọ, thầy ở chỗ
tôi”. “Đâu có! Thầy ở chỗ tôi mà!”, cho nên biết
Ngài có thể phân thân. Quư vị hỏi Ngài có phân thân hay
không? Ngài cười khúc khích, chẳng trả lời. V́
thế, những sự tích thần kỳ về Ngài
rất nhiều. Pháp sư Lạc Quan đă viết một
quyển sách về Ngài, có tựa đề là Kim Sơn
Hoạt Phật Thần Dị Lục. Tại Đài Loan,
c̣n có một vị pháp sư là pháp sư Chử Vân cũng
viết một quyển sách ghi các chuyện kỳ lạ của
Ngài, nhưng pháp sư Chử Vân chưa hề gặp Ngài!
Sư đến khắp nơi hỏi ḍ, thỉnh giáo
những vị lăo ḥa thượng biết những
chuyện ấy, kể lại chuyện xưa, Sư ghi
chép lại thành cuốn Kim Sơn Hoạt Phật Truyền
Kỳ. Như vậy th́ quán mười hai nhân duyên,
đoạn Hoặc, chứng Chân, từ duyên mà khai ngộ,
nên gọi là Duyên Giác.
Loại thứ hai, “nhân kiến phong động
thụ đẳng đẳng ngoại giới sự
tướng chi duyên, nhi đắc giác ngộ, viết Duyên
Giác” (do thấy những sự tướng bên ngoài
như gió lay động cây v.v… làm duyên mà giác ngộ, nên
gọi là Duyên Giác). Đó là ǵ? Ra đời nhằm lúc
chẳng có Phật pháp tồn tại trong thế gian. Do
vị ấy thiện căn sâu dầy, chẳng nhất
định do nhân duyên nào, thấy gió thổi lá rụng,
mưa rơi trên tàu chuối, bèn khai ngộ. Chẳng
nhất định là lúc nào, chẳng nhất định
là nơi chốn nào, duyên của vị ấy đă
đến. V́ thế, chúng tôi tin tưởng, vị ấy
gặp những sự biến hóa trong đại tự
nhiên giới đều là do Phật, Bồ Tát gia tŕ, duyên
của vị ấy đă chín muồi. Phật, Bồ Tát
biết nên dùng phương pháp ǵ để giúp vị
ấy giác ngộ. V́ vậy, Phật, Bồ Tát không
nhất định hiện thân người, mà có thể
hiện thân mưa, gió, có thể hiện ra những
hiện tượng tự nhiên, khiến cho vị ấy
vừa nh́n bèn hoát nhiên khai ngộ. Đó là Duyên Giác.
Tiếp đó, [sách Chú Giải]
nói: “Thiên Thai nhất gia cánh khu
phân thử nhị danh viết” (tông Thiên Thai lại c̣n
phân biệt địa vị ấy thành hai danh xưng).
Đây là do Thiên Thai đại sư nói.
Thông thường, trong Phật pháp, quá nửa là sử
dụng [các giáo thuyết] của tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai
nói [Bích Chi Phật] là Duyên Giác và Độc Giác. “Xuất hữu Phật thế,
quán thập nhị nhân
duyên nhi đắc ngộ giả, vị Duyên Giác”
(người xuất sanh nhằm lúc cơi đời có
Phật, quán mười hai nhân duyên, đắc ngộ, th́
là Duyên Giác). Nghe đức Phật giảng mười hai
nhân duyên, khai ngộ. [Tông Thiên Thai] chẳng nói là “nghe”, mà nói là Quán. Quán là ǵ?
Sử dụng trí huệ, c̣n Nghe là dùng Nhĩ Thức.
Kẻ b́nh phàm dùng Nghe, những ǵ quư vị nghe
được là tri thức. Dùng Quán th́ những ǵ quư
vị ngộ là trí huệ, khác hẳn. V́ thế, Quán có tác
dụng mạnh mẽ hơn Nghe. Nghe là dùng Nhĩ Thức,
Quán là dùng tánh Nghe, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát “phản văn, văn tự tánh,
tánh thành vô thượng đạo” (xoay trở lại nghe
nơi tự tánh, tánh trở thành đạo vô
thượng). Ngài chẳng sử dụng Nhĩ Thức,
mà dùng tánh Nghe. Tánh Nghe nghe Thanh Tánh bèn khai ngộ, có ư
nghĩa khác hẳn! Nay chúng tôi nói là tri thức và trí huệ
th́ mọi người sẽ dễ hiểu. Dùng Nhĩ
Thức th́ những ǵ quư vị nghe được là tri
thức (kiến thức); nếu dùng tánh Nghe, quư vị nghe
được trí huệ, hoàn toàn là chuyện khác nhau!
Ở đây, dùng tánh Nghe để nghe mười hai nhân
duyên, vị ấy khai ngộ, được gọi là Duyên
Giác, [xuất thế] nhằm lúc cơi đời có Phật. “Xuất vô Phật thế” (ra
đời nhằm lúc chẳng có Phật), lúc vị ấy
xuất sanh, trong thế gian này chẳng có Phật pháp,
chẳng có Tam Bảo. Trong hoàn cảnh ấy, vị ấy
“quán phong xuy thụ
động, diệp lạc, hoa phi chi ngoại duyên” (quán
duyên bên ngoài như gió thổi cây rung động, lá
rụng, hoa bay), trông thấy những hiện tượng
tự nhiên ấy, vị ấy khai ngộ. Hoặc
thấy tia chớp, hoặc nghe tiếng sấm cũng khai
ngộ, loại người ấy được gọi
là Độc Giác. V́ thế, có thể biết Độc
Giác là người vô cùng thông minh, thiện căn sâu
dầy. Chúng ta cũng có thể hiểu và tin tưởng
người ấy trong đời quá khứ đều là
đời đời kiếp kiếp tu hành trong Phật
môn, do thiện căn sâu dầy, nên gặp những duyên
ấy mới có thể xúc động.
Chúng ta lại xem phần kinh
văn tiếp theo: “Thượng
chi Thanh Văn, Bích Chi Phật, Nhị Thừa, quân vi
Phật đệ tử trung chi hạ căn” (Hàng Nhị
Thừa Thanh Văn và Bích Chi Phật trên đây đều
là kẻ hạ căn trong các đệ tử của
đức Phật), thượng căn là Bồ Tát,
hạ căn là Thanh Văn và Duyên Giác. “Kim chư đại sĩ”, [nghĩa là] nay kinh này
toàn nói đến các vị đại sĩ, những
vị Bồ Tát ấy “viễn
siêu ư thử”, [nghĩa là] vượt trỗi
bọn họ (hàng Nhị Thừa) quá nhiều. “Như Chân Giải viết:
Nhị Thừa tuy đắc tam Không môn” (Như sách Chân
Giải nói: “Nhị Thừa tuy đắc ba Không môn”), trong
phần sau sẽ nói về ba Không môn là Không, Vô
Tướng, Vô Nguyện, họ cũng đạt
được [ba môn ấy]. Tuy đạt
được, “duy trầm
Thiên Không” (chỉ ch́m đắm nơi Thiên Không),
đọa trong Thiên Chân Niết Bàn, đă lệch về
Không. Do đó, chẳng thể thọ dụng, chẳng
thể đắc đại tự tại, chỉ có
thể chứng tiểu quả. Trong ba học vị,
họ chỉ đạt được học vị
thứ nhất. A La Hán và Bích Chi Phật là học vị
thứ nhất, đều gọi là Tiểu Thừa.
Bồ Tát là học vị thứ hai, Phật Đà là
học vị thứ ba, là học vị cao nhất. Thanh
Văn và Duyên Giác giống như học vị Học
Sĩ (Cử Nhân) trong nhà trường hiện thời;
Bồ Tát là Thạc Sĩ (Cao Học), Phật Đà là
Tiến Sĩ. Tỷ dụ như vậy th́ mọi
người rất dễ hiểu!
“Bồ
Tát bất nhiên, năng đạt huyễn vơng” (Bồ
Tát chẳng vậy, có thể thấu đạt
lưới huyễn). Bồ Tát chẳng giống họ,
cao minh hơn họ rất nhiều. Bồ Tát thông đạt
y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
đều chẳng thật. “Huyễn
vơng” (幻網) là tỷ dụ, huyễn là giả,
mộng, huyễn, bọt, bóng, chẳng thật. Nhưng
người Tiểu Thừa coi chúng là thật, thật
sự tách rời chúng, chẳng dám tiến lên nữa,
tiến lên th́ sợ đọa lạc. Do vậy, họ
trụ trong Chân Không, ngỡ Không là thật. Bồ Tát thông
đạt “tướng là giả tướng,
tướng chẳng có chướng ngại”. “Đắc b́nh đẳng pháp,
cố tuy trụ tam Không môn, nhi bất trụ vô vi, bất
trụ hữu vi” (đắc pháp b́nh đẳng, nên tuy
trụ trong ba Không môn, mà chẳng trụ vô vi, chẳng
trụ hữu vi), điều này cho thấy các Ngài cao minh
hơn Nhị Thừa quá nhiều. Nhị Thừa th́
như thế nào? Đă vượt trỗi pháp hữu vi,
nhưng trụ trong pháp vô vi. Nhị Thừa trụ Không, vô
vi là Không, hữu vi là Có. Có là Huyễn Hữu, Không là Chân
Không. Chân Không và Huyễn Hữu là một, chẳng hai.
Người Nhị Thừa chẳng biết điều
này, chẳng đạt tới cảnh giới này. Bởi
lẽ đó, như ngài Tế Công tuy hiện thân La Hán,
nhưng trên thực tế, Ngài vượt xa hàng A La Hán, v́
sao? Không lẫn Có đều chẳng trụ, đắc
đại tự tại. A La Hán trụ Không, chẳng
trụ Có, chẳng đến nhân gian. Những vị
đến nhân gian đều do duyên phận đặc thù,
đến giúp đỡ người khác.
Như trong Từ Bi Tam Muội
Thủy Sám có nói quốc sư Ngộ Đạt có duyên
phận đặc biệt với một vị A La Hán là
tôn giả Ca Nặc Ca. Vị A La Hán ấy biết trong
tương lai Sư sẽ gặp chuyện không may, sẽ
gặp tai nạn lớn, Ngài sẽ giúp Sư hóa giải
tai nạn ấy. V́ thế, Ngài biến hóa thành một gă
ăn mày, lại c̣n là một gă ăn mày bệnh tật
rất nặng, thân thể tươm mủ, hôi thối
khôn sánh, người b́nh phàm đều chẳng muốn
đến gần! Vị A La Hán ấy cố ư khiến cho
quốc sư Ngộ Đạt trông thấy. Lúc đó, ngài
Ngộ Đạt c̣n chưa là quốc sư, c̣n chưa
nổi tiếng. Quốc sư Ngộ Đạt là cao
tăng mười đời. Sư xuất gia tu hành
lần này là đời thứ mười, mỗi lần
mất đi lại trở vào nhân gian, lại xuất gia,
mười đời đều là xuất gia cao tăng,
làm thầy của đế vương. V́ thế,
người xuất gia lỗi lạc hơn mọi
người đều chẳng phải do một đời
tu thành, mà là mười đời! Khi Sư chưa nổi
danh, gặp người ăn mày ấy, thấy
người ấy rất đáng thương. Sư
thật sự giúp đỡ, dùng đầu lưỡi
liếm vết thương ứa mủ, hút chất
độc ra, người b́nh thường chẳng
thể làm được! Vị A La Hán ấy khảo nghiệm
Sư, thấy Sư từ bi chân thật, chẳng giả,
từ bi đến mức độ nào? Khá lắm! Ngài
thấy rất vừa ḷng, bèn bảo quốc sư Ngộ
Đạt: “Trong tương lai, nếu thầy gặp tai
nạn to lớn, hăy đến t́m tôi”. Ngài nói: “Tôi ở
Tứ Xuyên”, cho Sư biết địa phương
đó. “Thầy lên trên núi, thấy trên núi có hai cây tùng mọc
cùng một chỗ, đến chỗ cây ấy gọi tên
tôi, tôi sẽ xuất hiện”.
Chẳng biết trải qua bao
nhiêu năm, Hoàng Thượng thật sự bái Sư làm
thầy, phong làm Quốc Sư. Có một ngày, Hoàng
Thượng tặng Sư một bảo tọa bằng
trầm hương. Quư vị thấy đồng tu
tặng tôi chuỗi hạt bằng trầm hương này,
nghe nói mấy hạt này rất quư, tôi chẳng biết,
trước nay tôi chưa hề dùng thứ trân quư này.
Người ở Đài Loan tặng cho tôi, phải
đến mười mấy vạn đồng Đài
Loan mới có được một chuỗi hạt như
vậy! Trầm Hương làm thành ghế Thái Sư[3],
rất nổi tiếng quư báu. Bảo tọa trầm
hương ấy, hai người chẳng khiêng
được! Hoàng Thượng tặng Sư bảo
tọa ấy. Sư ngồi trên đó cảm thấy
rất đắc ư, cảm thấy dường như
chính ḿnh tuyệt diệu lắm, người xuất gia
nào trong thiên hạ cũng chẳng thể sánh bằng ta!
Tâm niệm ngạo mạn vừa sanh khởi, thần
hộ pháp ĺa bỏ. Thần hộ pháp vừa rời
khỏi, oán thân trái chủ t́m đến bên thân. Oán thân trái
chủ rất lợi hại, [đời trước],
Sư và kẻ ấy cùng làm quan đời Hán, là
đồng sự của nhau. Quốc sư Ngộ
Đạt thuở ấy hại chết, hăm hại kẻ
ấy, khiến cho Hoàng Thượng xử tử kẻ
ấy. Kẻ ấy niệm niệm chẳng bỏ ḷng oán
hận, muốn báo cừu; nhưng Sư đă xuất gia,
tu hành rất nghiêm túc, có thần hộ pháp bảo vệ,
quỷ hồn chẳng thể kề cận. Lần này,
làm quốc sư, thần hộ pháp càng nhiều hơn. V́ nhận
lănh bảo tọa trầm hương ấy, dấy lên
một niệm tâm ngạo mạn, thần hộ pháp bỏ
đi, oan gia bèn tới dựa vào thân Sư, khiến cho trên
đầu gối Sư mọc lên một mụn ghẻ
h́nh mặt người, gần như sắp mất
mạng. Vị này là thầy của Hoàng Thượng,
những thầy thuốc giỏi nhất nước và
ngự y đều trị liệu, nhưng chẳng có cách
nào [chữa lành]. Sư đột nhiên nhớ tới
thuở trước từng gặp một gă ăn mày.
Nghĩ tới người ấy, Sư nói: “Nay ta gặp
phải đại nạn này, hăy đi t́m thử xem!”
Tới nơi đă được chỉ ở Tứ
Xuyên, quả nhiên thấy hai cây tùng. Sư bèn gọi to
ở đó. Vừa gọi, bèn thấy sau cây có chùa
miếu, A La Hán Ca Nặc Ca tôn giả bèn xuất hiện.
Vừa thấy Ngài xuất hiện, xa ĺa đă lâu nay
mới gặp gỡ: “Ta bảo ông tới, quả nhiên ông
thật sự tới”. Ngài bèn giảng cho Sư biết
nhân duyên nhiễm bệnh: “Mười đời
trước, các ông là đồng sự[4],
các ông là bạn bè. Do ông ghen ghét, chướng ngại bèn
hại ông ta. Người ta niệm niệm chẳng quên”.
Do vậy, dùng nước Từ Bi Tam Muội rửa
ghẻ mặt người để hóa giải,
điều đ́nh, hóa giải. Đối phương
đă nhận lời, mối oán kết ấy
được hóa giải, ghẻ mặt người bèn
khỏi hẳn! Quư vị ngẫm xem, cao tăng
mười đời, lỡ hại chết một
người, mà kẻ đó chẳng bỏ mối oán cừu
ấy, đợi cơ hội để báo thù, đáng
sợ quá!
Pháp sám hối Từ Bi Thủy
Sám vẫn c̣n lưu truyền. Hiện thời, trong
Phật môn, lạy Thủy Sám rất nhiều. Lạy
Thủy Sám th́ nhất định phải nói rơ ràng, minh
bạch chuyện này. Con người phải dùng cái tâm
từ bi thật sự để đối đăi
người khác, tiếp độ vật, chớ nên
hại người. Sát sanh hại mạng, quư vị
hại người ta, người ta hận quư vị. Quư
vị hại súc sanh, quư vị giết nó, ăn nó, nó có cam
tâm t́nh nguyện hay chăng? Do vậy, nghĩ đến
chỗ này, [sẽ cảm thấy] hết sức đáng
sợ; quư vị c̣n dám ăn thịt chúng sanh hay không? Trong
kinh, đức Phật có nói: “Quư vị ăn kẻ khác tám
lạng, đời sau phải trả kẻ ấy nửa
cân[5]”.
Nợ mạng phải trả bằng mạng, thiếu
nợ phải đền tiền. Nhân quả ba đời
chẳng trốn được! Chúng ta hiểu rơ
đạo lư này, liễu giải chân tướng sự
thật, trong cuộc đời này, đăi người
tiếp vật, tâm bèn b́nh lặng. Nếu chúng ta bị thua
thiệt, người ta dùng thủ đoạn chẳng
chánh đáng để tước đoạt tài vật
của chúng ta, chúng ta cười, chắc là đời
trước ta thiếu nợ hắn, hăy trả lại cho
hắn, chẳng có tâm oán hận! Nếu ta chẳng nợ
hắn, hắn đoạt đi cũng chẳng sao!
Đời sau hắn c̣n phải trả kèm thêm tiền lời
cho ta. Tâm b́nh khí ḥa để xử lư chuyện này, đó là
chánh xác. Hắn cướp đoạt những thứ
của ta, đó là trộm lấy, là “đạo tâm” (盜心: cái tâm trộm
cắp). Nếu ta dùng thủ đoạn để lấy
lại th́ cũng là “đạo tâm”, cũng phạm vào sai
lầm. Kẻ ấy phạm lỗi lầm, ta chẳng
phạm lỗi lầm, chẳng cần phải so đo,
hăy thành tựu đức hạnh của chính ḿnh. Không
chỉ chẳng oán hận, mà c̣n phải cảm tạ.
Giống như khảo thí, công phu của ta rốt cuộc
như thế nào? Bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục,
trải qua sự việc để luyện tâm, trải
qua những chuyện ấy để khảo nghiệm
chính ḿnh có thành tựu hay không. V́ thế, luôn dùng cái tâm
cảm ơn để xử lư.
Phàm là kẻ hủy báng, ganh
ghét, lăng nhục, tổn thương ta, ta đều
cảm ơn. V́ sao? Toàn là đến khảo nghiệm ta
để xem rốt cuộc ta là học Phật thật
sự hay giả vờ học. Nếu đối với
những nghịch cảnh và các kẻ ác ấy mà c̣n có tâm
oán hận, chứng tỏ chúng ta đă học Phật
uổng công rồi! Đức Phật dạy như
thế nào, đều quên sạch cả rồi! Quư vị
thấy Thích Ca Mâu Ni Phật trong lúc tu nhân, tu Nhẫn
Nhục Ba La Mật, gặp phải vua Ca Lợi, bị
lăng tŕ xử tử, Bồ Tát chẳng có chút tâm oán
hận nào, Nhẫn Nhục Ba La Mật bèn viên măn. Nếu
không gặp t́nh cảnh ấy, Ngài vẫn chưa tu viên măn
Nhẫn Nhục Ba La Mật. Trong lần khảo đảo
to lớn cuối cùng ấy, Ngài trúng cách, vượt qua,
chẳng oán hận vua Ca Lợi, mà c̣n cảm tạ nhà vua.
Lúc sắp chết, bảo vua Ca Lợi: “Trong tương lai, ta thành Phật, sẽ độ
nhà vua đầu tiên”. Đó là báo ân, như vậy
mới là đệ tử đức Phật, chúng ta hăy nên
học tập điều này. Đúng là thật sự
học hiểu, chẳng trụ vô vi, chẳng trụ
hữu vi. Bất luận trong thuận cảnh hay
nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, đều
chẳng động tâm, giữ ǵn sự “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác” của chính ḿnh, vĩnh viễn giữ tâm
cảm ân, tâm báo ân, đó là đúng. Đừng sợ
bị thua thiệt. Bị thua thiệt là có phước,
đừng chiếm tiện nghi của kẻ khác.
Chiếm tiện nghi là họa hại, là tai họa,
biết bị thua thiệt là phước, cổ thánh tiên
hiền nói chẳng sai! Hôm nay đă hết thời gian
rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!
Tập
118
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang
một trăm ba mươi bảy, ḍng thứ hai từ
dưới đếm lên, xem từ câu cuối cùng, xem
từ “như Chân Giải
viết” (như sách Chân Giải nói), xem từ
đoạn này.
“Như
Chân Giải viết: Nhị Thừa tuy đắc tam Không
môn, duy trầm Thiên Không. Bồ Tát bất nhiên, năng
đạt huyễn vơng, đắc b́nh đẳng pháp.
Cố tuy trụ tam Không môn, nhi bất trụ vô vi, bất
trụ hữu vi. Cố
năng hành Thanh Văn, năng hành Duyên Giác, nhi siêu việt
Thanh Văn, Duyên Giác chi địa” (như sách Chân
Giải nói: “Nhị Thừa tuy đắc ba Không môn,
nhưng chỉ ch́m đắm trong Thiên Không. Bồ Tát
chẳng vậy, có thể thấu đạt lưới
huyễn, đắc pháp b́nh đẳng. V́ thế, tuy
trụ trong ba Không môn, nhưng chẳng trụ vô vi,
chẳng trụ hữu vi. V́ thế, có thể hành Thanh
Văn, có thể hành Duyên Giác, vượt trỗi địa
vị Thanh Văn và Duyên Giác”). Trong buổi học
trước, chúng ta học đến chỗ này, hôm nay, tôi
sẽ nói từ đoạn này. Đây là nói những vị
Bồ Tát tham dự pháp hội này đều đắc ba
Không môn, kinh nói Tam Không là “nhập
Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn”, ba môn này
Tiểu Thừa và Đại Thừa đều nói
tới. Tuy người Nhị Thừa là Thanh Văn và Duyên
Giác chấp trước Không, họ chấp trước
Không Môn, nhập Không Môn, bèn chấp trước Không Môn; do đó,
họ chẳng có cách nào tiến cao hơn. Bồ Tát thông
minh hơn họ, Bồ Tát có thể thấu đạt
lưới huyễn, biết Hữu Môn là huyễn. Hữu
chẳng phải là Chân Hữu, Không cũng chẳng
phải là Chân Không. Không và Hữu bất nhị.
Đại Thừa Bồ Tát liễu giải chân
tướng sự thật này, nhưng Tiểu Thừa chẳng
liễu giải, nên nhập Không bèn trụ Không, nghe
đức Phật nói hết thảy Hữu là giả: “Phàm những ǵ có h́nh
tướng đều là hư vọng”, họ bèn buông
tướng hư vọng xuống, trụ vào Không.
Thật ra, đó vẫn là sai lầm, chẳng phải là
thật sự giác ngộ. Bồ Tát biết chân
tướng của Không và Hữu, nên đắc pháp b́nh
đẳng, Không và Hữu bất nhị, Không và Hữu
như một; đó là pháp b́nh đẳng. Tuy trụ ba
Không môn, Ngài chẳng chấp trước hai bên Không và
Hữu, mà cũng có thể nói là đối với hai bên
Không và Hữu, tức là hai bên Tánh và Tướng, Tánh là
Không, Tướng là Hữu; đối với hai bên
đều chẳng khởi tâm, không động niệm,
chẳng phân biệt, không chấp trước. V́ thế,
Ngài có thể hành Thanh Văn, mà cũng có thể hành Duyên
Giác. Thanh Văn, nếu nói theo hiện thời, là từ
giáo học mà khai ngộ, Ngài có thể dùng phương pháp
này, mà cũng có thể dùng hiện tượng đại
tự nhiên như một thứ chỉ dạy, khơi
gợi người tu hành, đó là Duyên Giác. Ngài đă
đạt đến cảnh giới vô chướng
ngại, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại; v́
thế, có thể vượt trỗi các địa vị
Thanh Văn và Bích Chi Phật.
“Hựu
Đại Bảo Tích Kinh, Thiện Đức Thiên Tử
Hội thuyết” (lại nữa, trong hội Thiện
Đức Thiên Tử của kinh Đại Bảo Tích),
hội này cũng do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng; trong
ấy, đức Phật có nói mấy câu như thế
này: “Dĩ Thanh Văn pháp giáo
hóa chúng sanh, cố ngă thị Thanh Văn. Dĩ Bích Chi
Phật pháp hóa ích chúng sanh, cố ngă thị Bích Chi Phật.
Dĩ đại bi pháp giáo hóa chúng sanh, cố ngă thị
Bồ Tát. Ư nhất thiết pháp đắc giải
thoát, nhất thiết vô ngại cố. Tùng sở hóa chúng
sanh, hoặc dĩ Thanh Văn pháp hóa ích, hoặc dĩ Bích
Chi Phật pháp hóa ích, hoặc dĩ Bồ Tát pháp hóa ích.
Cố ngă thị Thanh Văn, ngă thị Duyên Giác, ngă thị
Bồ Tát” (Dùng pháp Thanh Văn giáo hóa chúng sanh, nên ta là
Thanh Văn. Dùng pháp Bích Chi Phật giáo hóa, lợi ích chúng
sanh, nên ta là Bích Chi Phật. Dùng pháp đại bi giáo hóa chúng
sanh, nên ta là Bồ Tát. Trong hết thảy các pháp đắc
giải thoát, nên hết thảy vô ngại. Do giáo hóa chúng
sanh, hoặc dùng pháp Thanh Văn để giáo hóa, lợi
ích, hoặc dùng pháp Bích Chi Phật để giáo hóa, lợi
ích, hoặc dùng pháp Bồ Tát để giáo hóa, lợi ích,
nên ta là Thanh Văn, ta là Duyên Giác, ta là Bồ Tát).
Đoạn kinh này nói rơ, các vị Pháp Thân Bồ Tát và
Như Lai chẳng sai biệt, nên dùng thân ǵ để giáo
hóa, các Ngài bèn hiện thân ấy. Ở chỗ này,
đối tượng toàn là đệ tử trong Phật
môn, có duyên với Phật. Phật, Bồ Tát có thể
hiện thân A La Hán, tức là Thanh Văn, dùng thân phận A
La Hán để giáo hóa chúng sanh. V́ sao? Chúng sanh là căn tánh
Tiểu Thừa, quư vị phải dùng thân phận căn
tánh Tiểu Thừa để dạy họ. Họ là
căn tánh Duyên Giác Thừa, quư vị bèn thị hiện
Duyên Giác. Họ là căn tánh Bồ Tát, quư vị bèn hiện
làm Bồ Tát. Chúng tôi dùng tỷ dụ để nói, chư
vị sẽ hiểu rơ hơn. Phật, Bồ Tát là nhà
đại giáo dục, là một vị thầy tốt
thật sự, đối với học tṛ Tiểu
Học, dạy học tại trường Tiểu Học,
các Ngài là giáo viên Tiểu Học. Dạy học tại
trường Trung Học, các Ngài là giáo viên Trung Học.
Dạy học tại Đại Học, các Ngài là giáo
sư Đại Học, hoàn toàn tùy thuộc đối
tượng. Đối tượng như thế nào, các
Ngài bèn chuyển biến thân phận [như thế ấy].
Đoạn này nhằm nói lên ư nghĩa sau đây: Tùy
loại hóa thân. Nếu nói theo tôn giáo, đối
tượng là tín đồ Phật giáo bèn dùng thân phận
trong Phật giáo để giáo hóa, nay chúng ta gọi
[những vị ấy] là A Xà Lê trong Phật môn. Nếu
đối tượng là thân phận Cơ Đốc Giáo,
là căn tánh Cơ Đốc Giáo, các Ngài bèn hiện thân
phận Gia Tô (Jesus) để dạy họ, khác nhau! Căn
tánh ǵ bèn hiện thân tướng đó. Chúng ta hiểu rơ
đạo lư này, tức là thật sự thấu hiểu:
Các tôn giáo trên thế giới là một nhà. Tôi qua lại
với rất nhiều tôn giáo, [nhận thấy] tất
cả những vị thánh nhân sáng lập tôn giáo đều
là hóa thân của một Chân Thần. Tôi nói như vậy,
quư vị có tin hay không? Nhiều năm qua, chẳng có ai
phản đối, mọi người đều cảm
thấy có lư, xác thực là một chân thần thị
hiện nơi đó. Trong đoạn kinh văn này,
những vị Pháp Thân đại sĩ tượng
trưng cho chân thần. Quư vị thấy: Do căn tánh
của chúng sanh bất đồng, các Ngài bèn hiện các
thân bất đồng, thuyết pháp bất đồng,
khiến cho hết thảy chúng sanh ai nấy đạt
được lợi ích hiện tiền. Mọi
người hiểu rất rơ lợi ích hiện tiền
cần thiết của chính ḿnh, các Ngài cũng đem
lại cho họ lợi ích vĩnh viễn, đó mới là
viên măn.
Cuối cùng, cụ Hoàng Niệm
Tổ tổng kết: “Thử
minh chư đại sĩ thiện xảo phương
tiện” (đây là nói rơ phương tiện thiện
xảo của các vị đại sĩ). Nói rơ trong
đại hội Vô Lượng Thọ, trong hội
ấy, đức Phật giảng kinh Vô Lượng
Thọ, những vị đại Bồ Tát, các vị
đại sĩ đến tham gia pháp hội, các vị
đại sĩ là đại Bồ Tát. Quư vị thấy
người Hoa thường nói Quán Âm Đại Sĩ,
gọi theo tiếng Phạn sẽ là Quán Thế Âm Bồ
Tát Ma Ha Tát, Ma Ha Tát (Mahasattva) là Đại Bồ Tát, tức
Pháp Thân Bồ Tát. Những vị Bồ Tát này trụ trong
cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Chư Phật Như Lai, chỉ có
chư Phật Như Lai trụ trong Thường Tịch
Quang Tịnh Độ, kinh Hoa Nghiêm nói là Diệu Giác,
Diệu Giác trụ trong Thường Tịch Quang. Bốn
mươi mốt địa vị từ Sơ Trụ cho
đến Đẳng Giác trụ trong cơi Thật Báo đều
được gọi là Đại Sĩ. Quư vị
thấy các Ngài phương tiện thiện xảo. “Tùy cơ độ sanh”: Nên
dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân
ấy. Các Ngài chẳng có thân, chẳng có thân bèn gọi là
Pháp Thân; do chẳng có thân, nên có thể hiện hết
thảy các thân. Trong loài người chúng ta, quư vị
thấy loài người vẽ Tây Phương Cực
Lạc Thế Giới Biến Tướng Đồ[6]
th́ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
đều là người; Phật, Bồ Tát cũng là thân
người. Nếu là chư thiên, đức Phật
giảng kinh Vô Lượng Thọ trên cơi trời, giảng
về thế giới Cực Lạc th́ trong Tây
Phương Cực Lạc Thế Giới Đồ toàn là
thân tướng chư thiên. Phải hiểu điều
này! Chẳng phải là cố định, chẳng nhất
định, Phật không có pháp cố định
để có thể nói. Đức Phật chẳng có pháp
để có thể nói, đức Phật thuyết pháp
luôn “thuận theo tâm chúng sanh,
ứng với khả năng hiểu biết của
họ”. Do vậy, chúng tôi bèn liên tưởng, nếu
những vị đại Bồ Tát thấy duyên của
chúng sanh trong súc sanh đạo đă chín muồi, sẽ
thật sự hiện thân súc sanh để giảng về
thế giới Cực Lạc, khuyên dạy các súc sanh
ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
chuyện này chẳng giả! [Khi đó], các Ngài vẽ Tây
Phương Cực Lạc Thế Giới Đồ toàn là
súc sanh. Trong ngạ quỷ đạo, Cực Lạc
Thế Giới Biến Tướng Đồ toàn là ngạ
quỷ, nhất định phải hiểu đạo lư
này. Đó gọi là “phương
tiện thiện xảo, tùy cơ độ chúng”.
V́ thế, ở đây, các Ngài “thị hiện Nhị Thừa”.
Tuy thị hiện Nhị Thừa “nhi ly Thanh Văn, Bích Chi Phật chi tướng”
(nhưng ĺa tướng Thanh Văn, Bích Chi Phật), đó
là siêu việt, là nguyên lư. Trong loài người, Bồ Tát
thị hiện thân người, hóa độ mọi
người th́ cũng chẳng ĺa tướng
người, nhưng Ngài chẳng chấp tướng.
Bất luận thị hiện ở chỗ nào, thị
hiện trong đường nào, chúng ta hăy nhớ một
nguyên tắc, các Ngài chắc chắn chẳng khởi tâm
động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n không
có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? Nguyên
tắc này vĩnh hằng bất biến, nên gọi là chân
lư. Trong kiến trúc của Phật giáo Trung Quốc, chúng ta
đến viếng một ngôi chùa, quư vị thấy
đầu tiên là sơn môn, Thiên Vương Điện và
thần Hộ Pháp. Hai bên sơn môn thờ Tứ
Đại Thiên Vương, chính giữa thờ Di Lặc
Bồ Tát. Tượng Di Lặc Bồ Tát luôn tạc h́nh
Bố Đại ḥa thượng đời Tống. Lúc
lâm chung, Bố Đại ḥa thượng bảo mọi
người Ngài là Di Lặc Bồ Tát hóa thân. Nói xong,
ngồi xếp bằng mà tịch, đó là thật,
chẳng giả. Nói là Phật, Bồ Tát chi đó tái lai, nói
xong chẳng đi, tức là giả, chẳng thật! Thân
phận vừa bộc lộ, bèn ngay lập tức ra
đi, bất luận do chính ḿnh nói hay do người khác
nói; nếu thân phận bị bộc lộ bèn ra đi. Do
vậy, tại Trung Quốc, từ đó trở đi,
hễ tạo tượng Di Lặc Bồ Tát, bèn tạc
tượng Bố Đại ḥa thượng. Tại Trung
Quốc, Bố Đại ḥa thượng biểu thị
pháp ǵ? Biểu thị đại từ đại bi, phô ra
khuôn mặt tươi cười đón tiếp
người khác, biểu thị sự đối đăi
b́nh đẳng, đối xử ḥa hài với nhau,
biểu thị điều này. Người biết nh́n,
sẽ có thể thấy sâu hơn nữa, Ngài biểu
thị buông xuống, buông xuống vạn duyên. Ngài hằng
ngày khất thực trên đường, người khác
cúng dường Ngài thứ ǵ, Ngài đều bỏ vào trong
túi vải; mỗi ngày Ngài xách một cái túi vải to. Đă
có người hỏi Ngài: “Phật pháp là ǵ?” Lăo nhân gia buông
túi vải xuống đất, hai tay buông thơng. Người
khác thấy dáng vẻ ấy liền biết là buông
xuống. Buông xuống là Phật pháp, người ta nh́n bèn
hiểu là “buông xuống”. Lại hỏi lăo nhân gia, sau khi
đă buông xuống th́ nên làm như thế nào? Ngài cầm
lấy túi vải, đặt trên lưng bước đi,
chẳng ngoảnh đầu lại. Ư
nghĩa ǵ vậy? Sau khi đă buông xuống, bèn nâng lên; nâng
lên là hóa độ chúng sanh. Buông xuống là chính ḿnh,
giống như Ly (rời ĺa) đang được nói
ở đây; Ly là buông xuống. Quư vị thấy “thị hiện Thanh Văn, Bích Chi
Phật” là nâng lên, [tức là] nên dùng thân ǵ để
đắc độ, bèn hiện thân ấy. Tuy hiện thân
độ chúng sanh, chính ḿnh chẳng chấp trước
dấu vết, đó là buông xuống. Buông xuống và nâng
lên là cùng một chuyện, chẳng phải là hai chuyện.
Thấy thấu suốt vốn là buông xuống, buông
xuống là thấy thấu suốt. Hoặc chúng ta nói cách
khác, nâng lên là buông xuống, buông xuống là nâng lên, là
một, không hai. Đó là diệu pháp. Buông xuống nhưng
chẳng nâng lên, nâng lên mà chẳng buông xuống th́ pháp
ấy chẳng diệu! Quư vị thấy diệu ở
chỗ “hành thế gian pháp,
nhưng chẳng chấp thế gian pháp”, đó là Diệu. Cùng hết thảy chúng
sanh ḥa quang đồng trần, nhưng trên thực tế,
chẳng nhiễm mảy trần, cùng đại chúng ḥa
quang đồng trần, nhưng chẳng nhiễm mảy
trần. Đó là Bồ Tát đại triệt đại
ngộ chẳng trụ vô vi, chẳng trụ hữu vi, có
thể hành thế gian pháp, nhưng y báo và chánh báo trang nghiêm
trong mười pháp giới chẳng mảy may trở
ngại Ngài, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.
Câu kế tiếp là “khế nhập tam-muội”. Ba
chuyện này c̣n gọi là Tam Giải Thoát Môn. Chữ
Giải (解)
đọc giọng Khứ Thanh, đọc giống như
Tạ (謝)[7],
dùng làm động từ, chẳng phải là danh từ, mà
dùng như động từ. Quư vị thật sự
đắc đại tự tại, thật sự
đắc giải thoát. “Giải”
là giải trừ phiền năo, tập khí chẳng c̣n
nữa. “Thoát” là thoát ly
lục đạo luân hồi, thoát ly mười pháp
giới, thoát ly sanh tử khổ năo, [gồm có] ba môn!
Trước hết, chúng tôi giới thiệu ba môn ấy
đôi chút, sau đó mới đọc những dẫn
chứng trong sách Chú Giải. [Định nghĩa giản
lược của] ba môn giải thoát [như tôi sẽ tŕnh
bày dưới đây] được trích lục từ Tam
Tạng Pháp Số[8],
có xuất xứ là trích dẫn từ sách Pháp Giới
Thứ Đệ[9]
của tông Hoa Nghiêm. Trước hết là phần giới
thiệu sơ lược, “giải
thoát, tức tự tại chi nghĩa dă” (giải thoát
nghĩa là tự tại). Thành Phật là chứng
đắc Tam Đức Bí Tạng. Tam Đức Bí
Tạng là Pháp Thân, Bát Nhă, và Giải Thoát, ba điều này vốn
có trong tự tánh. Như chúng tôi vừa mới nói, Bồ
Tát có thể hiện thân khắp pháp giới, hiện vô
lượng vô biên thân, tự tại. Hiện thời, chúng
ta chẳng có bản lănh ấy, c̣n Ngài đắc
đại tự tại. Trọn đủ trí huệ viên
măn, tướng hảo viên măn. Tướng hảo viên măn
là thứ ǵ cũng chẳng khiếm khuyết, có thể hiện
y báo và chánh báo trang nghiêm của Phật, Bồ Tát, mà
cũng có thể hiện ngạ quỷ, địa
ngục, không có điều ǵ chẳng thể hiện,
đấy mới là tướng hảo trang nghiêm. Quư
vị có thể hiện Phật, Bồ Tát, chẳng
thể hiện thân địa ngục, th́ tướng
hảo của quư vị chẳng thể coi là viên măn.
Thứ ǵ cũng đều có thể hiện, như
tỷ dụ của cổ đại đức: “Dùng vàng làm đồ vật, món
ǵ cũng đều là vàng”. Chúng ta dùng một khối vàng tạc
tượng Phật, mọi
người trông thấy ưa thích, thờ tại đó, hằng ngày lễ bái. Chúng ta vẫn dùng bức tượng Phật ấy, đúc lại thành h́nh tướng ngạ quỷ hay đúc thành h́nh tướng địa ngục, vẫn là cùng một bức tượng, chẳng thay đổi, chỉ là h́nh dạng bị biến đổi. Quư vị bèn khởi lên phân biệt, chấp trước, đây là tướng ngạ quỷ, đây là tướng
địa ngục, sanh tâm khinh mạn đối với
nó, chẳng cung kính ngần ấy nữa!
Sai mất rồi! Nó vốn là tượng Phật, là
tượng Phật được đúc lại [thành h́nh
dạng khác], nó vốn là tượng Phật mà! Do vậy,
đức Phật nói “hết
thảy chúng sanh vốn là Phật”. Tổ tiên chúng ta
thường nói “bổn tánh
vốn lành”, lành chính là Phật. Vốn là Phật,
cớ sao tướng ấy mới biến đổi
đôi chút, quư vị bèn dấy lên phân biệt, chấp
trước? Sai mất rồi. Trong chân tâm, không có phân
biệt, không có chấp trước, không có nhiễm bẩn,
không có dao động, như như bất động,
chẳng có khởi tâm động niệm. Nay chúng ta đă
mê, mê mất chân tâm, trong hết thảy hiện
tượng bèn sanh khởi vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, mê nơi tướng,
chẳng thấy tánh. Xin hỏi quư vị, đó là ai? [Quư bèn
trả lời] là Bồ Tát, là chư thiên, là ngạ
quỷ, là súc sanh, quư vị mê nơi tướng! Hỏi
quư vị vàng ở chỗ nào? [Quư vị khăng khăng]:
“Chẳng có vàng! Nơi đây không có vàng, chỉ có
tượng Bồ Tát, chỉ có h́nh tướng súc sanh,
chỉ có tướng ngạ quỷ, chẳng có vàng!”
Kẻ ấy chẳng biết các tướng đó là vàng,
phàm phu thuộc vào trạng thái như thế, đă mê
mất rồi! Nếu giác ngộ, vàng
ở chỗ nào? Tùy tiện cầm lấy thứ nào,
cũng đều là vàng, chẳng sai, toàn thể
đều là vàng! Nói theo Tánh th́ hoàn toàn b́nh
đẳng. Nói theo Tướng bèn khác nhau. Bồ Tát thông
đạt Tánh - Tướng bất nhị; phàm phu mê
mất tự tánh, chấp trước huyễn
tướng, trong bất nhị lại phân biệt thành hai, chấp trước thành hai, phiền
phức nẩy sanh từ đó. V́ thế, Giải Thoát có
nghĩa là “tự tại”. “Môn”
có nghĩa là thông đạt, chẳng phải là thật
sự có Môn ấy!
“Vị
do thử tam giải thoát môn, tắc năng thông chí Niết
Bàn, cố danh tam giải thoát môn” (Nghĩa là do giữ
lấy ba môn giải thoát, nên có thể thông đạt
Niết Bàn; v́ thế, gọi là Tam Giải Thoát Môn). Quư
vị thấy ba thứ giải thoát môn này có thể
kiến tánh, có thể thấy chân tánh. Bất cứ
một môn nào trong ba môn đều được. Môn
thứ nhất là Không, có thể từ Không Môn trực
tiếp minh tâm kiến tánh. Môn thứ hai là từ Vô
Tướng, biết tất cả hết thảy các
tướng chẳng thật, tướng đều là
huyễn tướng. Kinh thường nói là “ĺa hết thảy tướng,
tức là hết thảy các pháp”, hễ ĺa tướng
bèn là tánh. Loại thứ ba là Vô Tác. Vô Tác c̣n gọi là Vô
Nguyện, chẳng có bất cứ điều ǵ mong
cầu, v́ sao? Mong cầu là vọng tưởng, trong
tự tánh chẳng có vọng tưởng, buông hết
thảy mong cầu xuống bèn kiến tánh. Vô nguyện, vô
cầu, tự tánh hiện tiền. Do ba môn này, có thể
trực tiếp minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành
Phật. Trước hết, chúng tôi giới thiệu những
môn này đôi chút. Thứ nhất là “Không giải thoát môn, vị quán nhất thiết pháp,
giai tùng nhân duyên ḥa hợp nhi sanh, tự tánh bổn Không”
(Không giải thoát môn, nghĩa là quán hết thảy các pháp
đều do nhân duyên ḥa hợp mà sanh, tự tánh vốn là
Không). Hết thảy các pháp chẳng có tự thể;
tự tánh, tánh là thể chất. [Các pháp] chẳng có tự
thể, nên Thể đúng là Không. Hiện thời, các nhà
Lượng Tử Lực Học bảo chúng ta, vật
chất rốt cuộc là ǵ? Hiện tại, đây là ngành
khoa học kỹ thuật tiên phong, họ đă phát
hiện: Chẳng có vật chất. Vật chất là
một huyễn tướng do ư niệm tích lũy liên
tục. Nói theo cách này th́ tự tánh vốn Không, nên nếu
chúng ta chấp trước [vật chất] là có th́ sai
mất rồi, đă mê rồi! Quư vị phải biết:
Có là Không, Không là Có. Tâm Kinh dùng Sắc để làm
đại biểu, Sắc đại biểu vật
chất. “Sắc tức là
Không, Không tức là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không
chẳng khác Sắc”, cùng một thứ! Không và Sắc
là cùng một thứ. Sắc là ǵ? Là Không, Không là vọng
niệm. Vọng niệm tích lũy thành hiện
tượng. Bốn câu trong Tâm Kinh đă giảng thấu
suốt: “Sắc tức là
Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không
chẳng khác Sắc”. Giảng thấu suốt, hiện
thời điều này đă được các nhà khoa
học Lượng Tử chứng minh.
Quư vị hiểu rơ đạo
lư này, liễu giải chân tướng sự thật “vạn pháp đều là Không”.
Có Tướng hay không? Tướng là có. Tướng có
trở ngại Không hay chăng? Chẳng trở ngại
Không! Không cũng chẳng trở ngại Có, Không và Có vô
ngại. Đó là quư vị thật sự thông đạt,
hiểu rơ! V́ thế, nói hết thảy các pháp là do các duyên
ḥa hợp sanh ra; ư niệm là nhân, tích lũy là duyên, vọng
niệm tích lũy liên tục thành hiện tượng.
Chúng ta coi chúng là vật chất, thấy chúng là Sắc pháp.
Hiện tượng vật chất vô lượng vô biên,
thiên sai vạn biệt. Có những thứ vật chất
hết sức kiên cố, [thí dụ như] những
thứ kim loại nặng hết sức kiên cố, đó
là ǵ? Các nhà khoa học cho biết, hiện tượng sanh
khởi chẳng ngoài chấn động. Chấn
động thuộc về năng lượng. Chấn
động đương nhiên có tần số. Tần
số khác nhau. Tần số chậm bèn biến thành kim
loại nặng. Tần số chấn động nhanh
hơn một chút, bèn biến thành bùn cát. Cây cối, hoa,
cỏ, da dẻ trên thân thể chúng ta đều là
những chấn động tương đối nhanh
một chút. Nhanh hơn chút nữa bèn biến thành sóng
điện từ trong hiện thời. Hiện thời,
nhân loại ứng dụng sóng điện từ
để chế tạo nhiều thứ máy móc chạy
bằng điện, như hiện nay chúng ta coi TV,
truyền tin bằng vô tuyến điện, hay mạng
Internet, đó là những thứ có tần số chấn
động cao. Hiện tượng vật chất dẫu
nhiều, nhưng toàn là tần số chấn động
khác nhau, nên những hiện tượng được
hiện ra cũng chẳng thật. V́ lẽ đó, bất
cứ hiện tượng vật chất hay tinh thần
nào đều có thể trở về năng lượng,
tức là các thứ chấn động đều có
thể quy hồi [năng lượng], chẳng khác nhau, là
pháp b́nh đẳng. Do vậy, trong ấy là Vô Ngă. Chữ Vô
này thông với những chữ sau, tức là Vô Ngă, Vô Ngă
Sở. Ngă c̣n không có, đương nhiên chẳng có Ngă
Sở. Nói đến những thứ được
sở hữu bởi Ngă th́ là chuyện chẳng có, Ngă và Ngă
Sở đều bất khả đắc.
“Nhược
năng như thị thông đạt, tắc ư chư
pháp nhi đắc tự tại, cố danh Không giải
thoát môn” (nếu có thể thông đạt như thế,
bèn được tự tại nơi các pháp; v́ thế,
gọi là Không Giải Thoát môn). Nếu quư vị hoàn toàn
hiểu rơ, minh bạch, thông đạt đạo lư này, quư
vị được đại tự tại trong hết
thảy các pháp, v́ sao? Chẳng c̣n chấp trước
nữa, mà cũng chẳng c̣n phân biệt nữa. Nay chúng ta
chẳng tự tại trong hết thảy các pháp, nguyên nhân
ở chỗ nào? Ta muốn chiếm hữu, muốn
khống chế chúng, há có thể tự tại ư? Thân
c̣n chẳng chiếm hữu được, chẳng
khống chế được, lại toan chiếm
hữu vật ngoài thân, há chẳng phải là dấy
vọng tưởng ư? Đó là tự chuốc khổ!
Nếu có thể khống chế cái thân, sẽ là [thân] Kim
Cang bất hoại th́ tốt hơn nhiều! Chẳng
cần nói tới các vị Pháp Thân Bồ Tát, chúng ta nói
tới phàm phu cao cấp; trong bốn thánh pháp giới,
họ có thể khống chế thân thể chẳng ngă
bệnh, có thể khống chế thân thể không ngă
bệnh, tức là có thể khống chế thân thể
trường sanh bất lăo. A La Hán có bản lănh ấy.
Bản lănh của các Ngài do đâu mà có? Trong phần
trước đă nói, họ đạt được ba
môn giải thoát này. Các Ngài đạt được ở
mức độ nông cạn, v́ c̣n có chướng ngại,
do trụ vào Không, chẳng trụ Có. V́ thế, các Ngài
chẳng có hết thảy phiền năo chướng
ngại về Có, các Ngài đă buông xuống. A La Hán trụ
nơi Không; thật ra, trụ nơi Không là sai lầm.
Trụ Không th́ chính ḿnh đắc tự tại, nhưng
chẳng thể giúp đỡ người khác! Bồ Tát
biết Không và Có bất nhị, Không là Có, Có là Không, nên
Bồ Tát có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh,
có thể cảm ứng thuận theo ư niệm của chúng
sanh. Chúng sanh muốn thấy thân nào, Ngài bèn hiện thân
như thế ấy, quư vị thấy tự tại
lắm chứ! Đây là giảng cho chúng ta biết chân
tướng sự thật.
Loại thứ hai là “Vô Tướng giải thoát môn,
vị kư tri nhất thiết pháp Không, cố quán nam nữ,
nhất dị đẳng tướng, thật bất
khả đắc” (Vô Tướng giải thoát môn, nghĩa
là đă biết hết thảy các pháp là Không, nên quán các
tướng như nam, nữ, một, khác v.v… thật
sự chẳng thể được). Tướng là
huyễn tướng, cảnh giới ấy chẳng
dễ hiểu. Hiện thời có những thứ khoa
học kỹ thuật rất hữu ích cho sự học
Phật của chúng ta, Phật pháp là khoa học. Xưa kia,
tôi theo thầy Phương học Triết, thầy
bảo tôi: “Phật pháp là
triết học”. Khi thầy giới thiệu Phật
pháp cho tôi, [đă bảo]: “Thích
Ca Mâu Ni Phật là vị triết gia vĩ đại
nhất thế giới, kinh Phật là đỉnh cao
nhất trong triết học, là đỉnh cao nhất trong
triết học của toàn thể thế giới. Học
Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong
đời người”. Tôi được dẫn
dắt vào Phật môn như thế, học gần sáu
mươi năm, nay đă biết: Không chỉ là
đỉnh cao nhất trong triết học, mà c̣n là đỉnh
cao nhất trong khoa học. Thích Ca Mâu Ni Phật không chỉ
là một triết gia vĩ đại, mà c̣n là một khoa
học gia vĩ đại, thật đấy, chẳng
giả đâu! Ba ngàn năm sau khi đức Phật
diệt độ, hiện thời các nhà Lượng
Tử Lực Học mới phát hiện “vật chất là hiện tượng do ư niệm
tích lũy liên tục”, nhưng từ ba ngàn năm
trước, trong kinh Đại Thừa, đức
Phật đă nói tới rồi. Do vậy, kinh Phật
vượt trỗi khoa học hiện đại. Lượng
Tử Học là ngành khoa học mới nhất, mà đă
lạc hậu ba ngàn năm so với Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đức Phật giảng rơ ràng, minh bạch. Các hiện
tượng ấy, giống như nay ta xem TV, hoặc xem
phim ảnh, thấy [h́nh ảnh] trên màn bạc. Chúng ta
biết [những h́nh tướng] trên màn bạc chẳng
thật, ta có thể nh́n, nhưng chẳng thể khống
chế nó, chẳng thể chiếm hữu nó, ta có thể
thưởng thức nó. Nếu có một người, vào
một ngày nào đó, giống như những nhà khoa học
Lượng Tử thật sự hiểu rơ, thật
sự thông đạt, có phải là sẽ thấy hết thảy
các hiện tượng trong hiện thời, thấy
hết thảy nam nữ, thấy hết thảy các
thứ một và khác; “một” là giống nhau, “khác” là
chẳng giống nhau, tức là nói đối với
hết thảy vạn vật, [họ] có thấy là
“thật sự chẳng thể được” hay không? Có!
Họ đă thấy được! Chúng tôi đọc báo
cáo của họ, thấy đă nói tới chuyện ấy,
nhưng họ như thế nào? Họ vẫn có ư niệm
chiếm hữu, vẫn có ư niệm khống chế, họ
vẫn đang thật sự làm, đó là ǵ? Nói theo Phật
pháp, nhà khoa học giải ngộ, đă hiểu rơ,
nhưng chưa đoạn tập khí phiền năo. Họ
khác với người tu hành trong Phật môn! Người
tu hành trong Phật môn là chứng ngộ. Quư vị thấy
một đằng là giải ngộ, một đằng là
chứng ngộ. Nay chúng ta gọi giải ngộ là tri
thức (kiến thức), chứng ngộ là trí huệ. Trí
huệ có thể giải quyết vấn đề,
chẳng để lại hậu quả. Tri thức có
thể giải quyết vấn đề, nhưng sau
đó có hậu quả! Quư vị thấy họ nói
giống như Phật pháp, nhưng họ vẫn một
mực tranh danh đoạt lợi, vẫn có tự tư
tự lợi. Đó là hậu quả, thuộc về
giải ngộ, chẳng phải là chứng ngộ.
Chứng ngộ hữu dụng, chính ḿnh được
thọ dụng, chính ḿnh thật sự vượt thoát.
Trong phần trước đă nói là “vượt thoát Nhị Thừa”. Chứng ngộ
th́ mới có thể vượt thoát, giải ngộ sẽ
chẳng thể vượt thoát. Giải ngộ th́ quư
vị biết nhiều hơn Nhị Thừa, nhưng quư
vị thọ dụng chẳng bằng Nhị Thừa,
vẫn là phàm phu! Nói cách khác, trước kia, thầy Lư
thường nói: “Đáng luân
hồi như thế nào th́ vẫn luân hồi như
thế ấy, chẳng thoát khỏi lục đạo luân
hồi”. Hàng Nhị Thừa vĩnh viễn thoát luân
hồi, tuy chưa thoát ly mười pháp giới, nhưng
đă thoát ly luân hồi. Các nhà khoa học chẳng có cách nào
thoát ly luân hồi. Nếu họ thật sự giác ngộ,
chẳng bận ḷng v́ thế giới hư huyễn này,
chẳng khởi tâm, không động niệm nơi
cảnh giới, bèn vượt thoát, nhập vào [các
địa vị] Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, đă
chứng đắc.
Phật pháp chú trọng hành -
chứng, tín - giải, đó là phương tiện. Công phu
đắc lực do hành. Có hành và có chứng th́ mới
thật sự thọ dụng. Chẳng có hành, chẳng có
chứng, chỉ dốc công đổ sức nơi tín
giải, chưa đủ! Đó là gieo thiện căn trong
Phật môn mà thôi! Thiện căn cũng cần thiết,
v́ người hành chứng trọn chẳng phải là thành
tựu ngay trong một đời! Đời đời
kiếp kiếp, vô lượng kiếp tu hành th́ mới có
thể chứng đắc. Chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật đă v́ chúng ta thị hiện, biểu diễn:
Mười chín tuổi, rời khỏi gia đ́nh đi ra
ngoài tham học, ba mươi tuổi buông xuống vạn
duyên, nhập Định dưới cội Bồ
Đề, đêm nh́n sao Mai, giống như Duyên Giác,
cũng chẳng có thầy, nh́n ngôi sao ấy mỗi ngày nhưng
chẳng khai ngộ. Ngày hôm ấy bèn khai ngộ, có
nhiệm mầu hay chăng? Hằng ngày nh́n thấy mà
chẳng khai ngộ, ngày hôm ấy trông thấy bèn khai
ngộ là v́ ngày ấy khác hẳn, t́nh tự khác nhau,
cảnh quan bên ngoài của ngày hôm ấy được
Phật lực gia tŕ, linh tánh dẫn dắt, hoát nhiên
đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành
Phật, có phải là ngẫu nhiên hay chăng? Là biểu
diễn. Trên thực tế th́ sao? Trong kinh Phạm Vơng,
đức Phật đă nói thật: Ngài giáng thế
lần này là thị hiện thành Phật lần thứ tám
ngàn. Ngài đă sớm thành Phật, quư vị nói xem công phu
hành chứng của Ngài sâu cỡ nào? Chúng ta là kẻ sơ
học, làm sao có thể đạt đến cảnh
giới ấy? Lục Tổ Huệ Năng đại
sư đă thị hiện: Hai mươi bốn tuổi
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh,
cảnh giới của Ngài hoàn toàn b́nh đẳng với
Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng hai, chẳng khác. Thuở
ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật [quán sát căn cơ của chúng
sanh, thấy] nên dùng thân Phật để độ, Ngài
bèn hiện thân Phật. Huệ Năng đại sư
ở Trung Quốc, hoàn cảnh của Trung Quốc thuở
đó đă chẳng thích hợp thị hiện thân
Phật, nên Ngài thị hiện thân tỳ-kheo, dùng thân
tỳ-kheo để xuất hiện, nhưng cảnh
giới b́nh đẳng, chẳng khác nhau. Điều này nói
rơ: Dẫu trong một đời này, chúng ta chẳng
thể khế nhập cảnh giới này, chúng ta ngừng
ở nơi tín giải, cũng có thể nói là tích lũy
tín giải trong một thời gian rất lâu rồi
mới có chân hành. Hiện thời, chúng ta đều
chẳng phải là chân hành. V́ sao? Xen tạp vọng
tưởng, tạp niệm, tự tư tự lợi,
tiếng tăm, lợi dưỡng, ít nhiều ǵ th́ trong
ấy cũng xen tạp, chẳng thuần! Muốn
đạt tới không xen tạp, trong kinh Đại
Thừa, Phật, Bồ Tát thường dạy chúng ta, mà
[pháp môn] Niệm Phật cũng dạy chúng ta. Ngài
Đại Thế Chí dạy chúng ta “tịnh niệm tiếp nối”. Tịnh niệm
là ǵ? Chúng ta niệm Phật mà hoài nghi thế giới
Cực Lạc th́ ư niệm chẳng thanh tịnh. Chúng ta
niệm Phật c̣n xen tạp, vẫn thường nghĩ
đến chính ḿnh, niệm ấy chẳng thanh tịnh.
Niệm thanh tịnh, chẳng có hoài nghi, chẳng xen
tạp, trong tâm đúng là một câu Phật hiệu bèn
hữu dụng!
Cư sĩ
Lưu Tố Vân mắc chứng hồng ban lang sang (Systemic Lupus Erythematosus) gần
mất mạng, c̣n nghiêm trọng hơn ung thư,
đối với chứng bệnh này, Trung Y lẫn Tây Y
đều chẳng có cách nào. Bà ta niệm Phật được lành, hiệu
quả khiến cho kẻ khác kinh ngạc. Khi lành bệnh,
trên mặt ngay cả một vết sẹo cũng không có!
Điều này khiến vị bác sĩ điều trị
chánh yếu của bà ta cũng chẳng có cách nào
tưởng tượng được! Bà ta lành bệnh
như thế nào? Thưa cùng quư vị, tịnh niệm
tiếp nối! Bà ta thật sự làm được câu
ấy, bà ta niệm A Di Đà Phật, chẳng hoài nghi tí
nào, chẳng xen tạp chút nào! Từ tấm gương
của bà ta, chúng ta có thể hiểu: Thân thể chúng ta
bất luận bệnh tật ǵ, khi quư vị thật
sự là “tịnh niệm
tiếp nối”, sẽ niệm lành bệnh, có
đạo lư hay không? Có! Đạo lư ǵ vậy? Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Thân và tâm của
quư vị do tâm tưởng của chính quư vị sanh ra, nên
tâm tưởng của chính quư vị có thể biến đổi
nó. Tâm tưởng của chúng ta bất thiện, nó bèn phát
triển theo hướng trái nghịch, bèn ốm đau,
tử vong, đi theo phương hướng ấy.
Nếu chúng ta là tịnh niệm tiếp nối, nó bèn phát
triển theo phương hướng tốt đẹp.
Tốt đẹp là ǵ? Khỏe mạnh, sống lâu,
đạo lư là như vậy đó! Có cần đến
thuốc men hay không? Chẳng cần! Cư sĩ Lưu
Tố Vân đă nêu gương khó có. Con người hiện
thời chẳng có một mẫu gốc[10]
ở chỗ nào th́ mọi người chẳng tin. Hễ
có tấm gương th́ quư vị bèn tin tưởng. Chúng
ta nói “con người tánh
vốn lành”, Tam Tự Kinh đă nói [như thế],
[điều ấy] đă được học mấy
ngàn năm: “Nhân chi sơ, tánh
bổn thiện”. Con người do giáo dục mà tốt
đẹp, nhưng chẳng có ai tin tưởng. Mọi
người nghe xong đều rất hoan hỷ,
đều rất tán thán, nhưng làm chẳng
được! Đó là lư tưởng, há có thể làm
được? Chúng tôi làm thí nghiệm tại Thang Tŕ, chính
chúng tôi cũng chẳng ngờ làm ba bốn tháng liền thành
công, hiệu quả rơ rệt. Chúng tôi cảm tạ,
bội phục tổ tiên, sao mà con người dễ
dạy dường ấy? Chỉ cần có người
cầm đầu, có giáo viên tốt nêu gương cho
họ thấy, xướng suất, họ tin
tưởng, thật sự học theo. Quư vị thấy
sau ba, bốn tháng, [người dân Thang Tŕ] bèn quay
đầu. Quay đầu là bờ, phàm phu vừa quay
đầu bèn là Phật, Bồ Tát.
Trong thế giới hiện
tiền, bất luận làm ǵ đều phải có
gương tốt, có điển h́nh tốt; nếu chẳng
có, người ta chẳng tin! Phật pháp tốt
đẹp như thế, thật sự có mấy
người làm gương rơ rệt, xác thực là thân tâm
của chính ḿnh khỏe mạnh, gia đ́nh ḥa thuận,
sự nghiệp rất thuận lợi, đối xử
ḥa hài với xóm giềng làng nước nơi ta cư
trụ, xă hội an định, thế giới ḥa b́nh, [những
điều này] có thể làm được, chẳng
phải là không làm được! Do vậy, quư vị
nhất định phải hiểu: Đây là trí huệ
chân thật, hoàn toàn giống như kinh Đại Bát Nhă
đă nói. Kinh Đại Bát Nhă đă dạy: “Hết thảy các pháp vô sở
hữu, rốt ráo không, bất khả đắc”. Có
rất nhiều người thấy điều này,
[tưởng là Bát Nhă] dường như quá tiêu cực!
Bất khả đắc th́ ta học nó để làm ǵ?
Bất khả đắc mà hết thảy quư vị
đều đạt được, quư vị đạt
được ǵ? Quư vị đạt được
tận hư không, khắp pháp giới. Quư vị có sở
đắc, dốc hết tánh mạng mong cầu, nhưng
đạt được hết sức hữu hạn,
đạt một chút ít như thế! Lại nữa,
một tí tẹo ấy, đến cuối cùng, quư vị
vẫn chẳng mang theo được. Thứ ǵ quư vị
cũng đều chẳng đạt được. Khi
quư vị bất khả đắc, thứ ǵ cũng
đều đạt được, quư vị đạt
được toàn thể pháp giới. Quư vị thấy
chẳng phải là các vị Bồ Tát ấy đă
đạt được hay sao? Khắp pháp giới hư
không giới, chúng sanh có cảm, các Ngài bèn có thể hiện
thân thuyết pháp, chẳng phải là các Ngài đă
đạt được ư? Tự tại lắm! Tuy
hiện hết thảy các thân, tuy nói hết thảy các
pháp, nhưng tâm địa của chính ḿnh là tâm thanh
tịnh, b́nh đẳng, chẳng nhiễm trước
mảy may, chẳng kể công, chẳng nói “hôm nay ta làm
chuyện tốt”. Chẳng có ư niệm ấy, làm mà
chẳng làm! Tiếp đó, nói tới Vô Tác th́ Vô Tác mang ư
nghĩa này.
Bồ Tát,
như Thích Ca Mâu Ni Phật đă biểu diễn trong
thuở trước: Mỗi ngày đều v́ mọi
người giảng kinh, thuyết pháp, giáo học
chẳng ngưng nghỉ. Một người t́m
đến bèn dạy một người, hai người
t́m đến bèn dạy hai người. Mấy trăm,
mấy ngàn người t́m đến, bèn dạy mấy
trăm, mấy ngàn người. Hằng ngày, người
từ bốn phương tám hướng t́m đến
rất náo nhiệt. Chúng ta thấy Phật giáo học khá
vất vả, nhưng thật ra, đức Phật có
mệt hay không? Đức Phật chẳng mệt! V́ sao?
Ngài chẳng chấp tướng, Ngài chẳng làm, làm mà
không làm. “Không làm” là về mặt tướng th́ có làm,
về mặt Sự th́ có làm; nhưng theo Lư, chẳng làm; trong
tâm chẳng làm! Ngài chẳng có phân biệt, chẳng có
chấp trước, Ngài làm ǵ? Do vậy, có người
hỏi Ngài: “Vô Tác th́ làm sao làm được?” Đức
Phật dùng chuông, trống làm tỷ dụ. Ngài nói: “Quư
vị thấy cái chuông đó, trong chuông có ǵ hay không?”
“Trống không!” “Trong bụng cái trống có ǵ hay không?”
“Trống không!” Gơ to bèn kêu to, gơ nhỏ bèn kêu nhỏ.
Chẳng gơ, chẳng kêu! Khi quư vị gơ, trống có
chẳng kêu hay không? Chẳng có! Chuông có chẳng kêu hay không?
Không có. Chuông chẳng nói: “Quư vị gơ ta một tiếng,
ngay lập tức ta dùng âm thanh đáp ứng”. Chẳng có!
[Chuông, trống] chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp
trước. Gơ là ǵ? Đức Phật bảo “pháp nhĩ như thị”, [nghĩa
là] tự nhiên là như vậy. Chúng ta phàm phu th́ không được!
Người ta nêu câu hỏi, chúng ta suy nghĩ phải
trả lời người ấy như thế nào; đó
là hữu tác, hữu vi. [Đối với Phật, Bồ
Tát], căn bản là chẳng nghĩ ngợi ǵ cả,
thuận theo tự nhiên mà trả lời, vô tác, vô vi! Vô tác,
vô vi là Tánh Đức khởi dụng; hữu tác, hữu vi
là ư thức khởi dụng, khác hẳn! Ư thức khởi
dụng là tạo nghiệp, tự tánh khởi dụng
chẳng tạo nghiệp. Phật, Bồ Tát chẳng làm,
không làm mà làm, làm mà không làm. Chư Phật, Bồ Tát
hiện thân, hiện mà vô hiện, vô hiện mà hiện.
Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, vô thuyết mà thuyết,
thuyết nhưng vô thuyết, mầu nhiệm ở
chỗ này! Từ chỗ này, chúng ta có thể biết: Tam
Không của Tiểu Thừa đúng là khác hẳn Tam Không
của Đại Thừa. Tam Không của Tiểu Thừa
có Tự Thọ Dụng, chẳng có Tha Thọ Dụng, cho
nên chẳng viên măn! Tam Không của Đại Thừa th́
Tự Tha Thọ Dụng b́nh đẳng, chẳng có
chướng ngại. Đó gọi là viên măn, là Đại
Tam Không tam-muội.
Tiếp đó,
sách viết: “Nhược
năng như thị thông đạt chư pháp vô
tướng, tức đắc tự tại, cố danh Vô
Tướng giải thoát môn” (Nếu có thể thông
đạt các pháp vô tướng như thế, liền
đắc đại tự tại, nên gọi là Vô
Tướng Giải Thoát Môn). Tu môn giải thoát ấy, tôi
tin tưởng người biết tu sẽ chẳng
cần một thời gian rất dài, chắc chắn ba
năm sẽ nhập tam-muội. Cách tu như thế nào?
Xem TV phải biết xem. Khi xem TV mà chẳng biết xem,
hoàn toàn bị ô nhiễm bởi TV. Khi biết xem, bản
thể chính là Không, trọn chẳng thể được!
Hằng ngày, quư vị thấy
những ǵ diễn ra trên TV hoàn toàn giống như thế
gian này. Những thứ ấy là giả, thế gian cũng
là giả. Xem bằng cách như vậy suốt ba năm,
quư vị bèn khai ngộ, xem TV bèn có thể thành Phật!
Chẳng biết xem, sẽ đọa địa ngục,
quư vị bị nó làm hư, trong tương lai, quư vị
khởi tâm động niệm đều là tự tư
tự lợi, tổn người, lợi ḿnh, nên
đọa địa ngục A Tỳ. Biết xem sẽ
khai ngộ, biết xem là ǵ? Nguyên lai toàn là giả, chẳng
có ǵ là thật, quư vị đắc tự tại! Vô
tướng giải thoát, từ trong tướng mà
thấy vô tướng. Do vậy, trong cảnh giới
chẳng có thiện hay ác thật sự. Nói cách khác, hết
thảy các pháp chẳng có đối lập. Thiện và ác
là đối lập, chân và vọng là đối lập,
tốt và xấu là đối lập, không có những
thứ ấy. Chúng ta thấy Thiện Tài đồng
tử tham học năm mươi ba lần, nêu ra năm
mươi ba pháp môn đều có thể chứng Vô
Thượng Bồ Đề, đều có thể thành Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, há có chướng
ngại! Nơi pháp chẳng có chướng ngại, nơi
Lư và Sự chẳng có chướng ngại, chư pháp
chẳng có chướng ngại. Chướng ngại là do
vọng niệm của chính ḿnh, đức Phật quy
nạp các vọng niệm ấy thành ba món chướng
ngại: Khởi tâm động niệm là món thứ
nhất, phân biệt là món thứ hai, chấp trước
là món thứ ba, những thứ ấy gây chướng
ngại. Buông phân biệt, chấp trước xuống,
chướng ngại bèn giảm một nửa. Đă
đắc ba môn giải thoát của Tiểu Thừa, buông
khởi tâm động niệm xuống bèn đắc ba môn
giải thoát của Đại Thừa. Người
Tiểu Thừa nhập cảnh giới, đắc Thiên
Chân Niết Bàn, buông phân biệt, chấp trước
xuống, vượt thoát lục đạo luân hồi.
Đại Thừa buông khởi tâm động niệm
xuống, vượt thoát mười pháp giới,
đắc đại tự tại.
Thứ ba, “Vô Tác giải thoát môn. Vô Tác, hựu vân Vô Nguyện,
vị nhược tri nhất thiết pháp vô tướng,
tắc ư tam giới vô sở nguyện cầu” (Vô Tác
giải thoát môn. Vô Tác c̣n gọi là Vô Nguyện, ư nói: Nếu
biết hết thảy các pháp vô tướng, sẽ
đối với tam giới chẳng có mong mỏi ǵ). Quư
vị biết “phàm những ǵ
có tướng đều là hư vọng”, sẽ trừ bỏ ư
niệm mong cầu. Khế nhập cảnh giới ǵ?
Khế nhập “khắp pháp giới hư không giới và ta
là một Thể”. Thân của chúng ta là vật chất, bên
trong là tinh thần, tinh thần của chúng ta tương
ứng với tự tánh. Kinh Hoa Nghiêm nói Pháp Tánh, quư vị
thấy đă mở rộng cỡ nào? Khôi phục
đến mức viên măn, thân thể chúng ta và tất
cả vật chất trong pháp giới hư không giới
trở thành một Thể. Tâm là Pháp Tánh, thân là Pháp
Tướng, đó là Pháp Thân Bồ Tát, là minh tâm kiến
tánh. Minh tâm kiến tánh bèn chẳng c̣n chấp trước
thân này là ta, [mà sẽ nhận biết] Pháp Tướng là
thân ta, Pháp Tánh là tâm ta. Thân tâm ta c̣n lớn hơn cả
vũ trụ, toàn thể vũ trụ là một hiện
tượng do thân tâm của ta biến hiện, đó là
Diệu Giác, viên măn thành Phật. Trong khắp pháp giới
hư không giới, quư vị khởi tác dụng là
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm,
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm nhằm
giảng chuyện như thế. Tâm và Pháp Tánh kết
hợp thành một Thể, thân và Pháp Tướng dung
hợp thành một khối. Chuyện là như vậy
đó, nói về chuyện này, đó
gọi là “nhập Đại
Bát Niết Bàn”, vĩnh viễn chẳng có sanh tử.
Trong ấy tràn ngập trí huệ, tràn đầy
đức năng, tràn đầy tướng hảo. Cổ
nhân có hai câu nói: “Chẳng
đọc Hoa Nghiêm, chẳng biết sự phú quư do thành Phật”.
Quư vị đọc Hoa Nghiêm rồi mới biết,
thật sự đạt được phú quư viên măn! Vua
chúa trong nhân gian quá nhỏ. Đại Phạm Vương
vẫn thua kém quá nhiều, Ma Hê Thủ La Thiên Vương
vẫn chẳng sánh bằng! Cảnh giới ấy lại
là b́nh đẳng, ai nấy đều có thể chứng
đắc.
Bởi lẽ, hễ có
nguyện cầu th́ trật mất rồi! Chúng ta học
Phật, Phật c̣n bảo chúng ta phát nguyện, cầu sanh
Tịnh Độ, v́ sao? Cảnh giới [Cực Lạc]
tốt đẹp như thế! Trong hoàn cảnh lục
đạo của cơi này, chúng ta học chẳng thành công.
Hoàn cảnh hiện thời bất lợi cho tu hành, quá
nhiều chướng duyên; trong hoàn cảnh này, nếu
chẳng có thiện tri thức chân chánh, thiện tri
thức chân chánh là Phật, nhưng Phật chẳng
tại thế, chẳng có đồng tham đạo
hữu chân chánh, nên tu học vô cùng khó khăn. Đức
Phật bảo chúng ta phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ, nhằm thay đổi hoàn cảnh học
tập. Hoàn cảnh trong cơi kia tốt đẹp, chẳng
có chướng ngại, thầy ở bên kia là A Di Đà
Phật. Ngoài A Di Đà Phật, c̣n có mười
phương chư Phật Như Lai đều giúp A Di
Đà Phật giáo hóa. Các Ngài thường đến
thế giới Cực Lạc chẳng gián đoạn,
thường xuyên lui tới. Nếu chúng ta sanh về
thế giới Cực Lạc, sẽ có cơ hội
thường xuyên gặp gỡ chư Phật, nghe các Ngài
dạy bảo, thỉnh giáo các Ngài, hoàn cảnh ấy quá
tốt đẹp. Trong hoàn cảnh ấy, muốn ǵ bèn có
nấy, khi chẳng dùng, nó sẽ không c̣n nữa. Ở
nơi đây, chúng ta cần tài liệu th́ vẫn phải
dùng kệ sách chất một đống lớn. Ở bên
đó, họ muốn có tài liệu ǵ, nó liền bày ra
trước mặt. Chẳng cần th́ chẳng c̣n
nữa. Không cần tồn trữ, quư vị nói xem có
tự tại lắm hay không? Do vậy, giảng
đường trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới sạch làu, chẳng nhiễm mảy trần,
một chút thừa thăi cũng chẳng có. Khi cần bèn
biến hiện ở ngay trước mặt. Khi chẳng
cần, bèn không c̣n nữa. Quư vị nói xem: Tự tại
lắm, đúng là thuận theo ḷng muốn!
Hoàn cảnh tốt đẹp
dường ấy, quư vị muốn ăn, thích ăn, đến
thế giới Cực Lạc muốn ăn thứ ǵ,
thứ ấy bèn bày ngay trước mặt, chẳng
cần phải nấu nướng, mùi vị đều là
ngon lành nhất. Ăn xong, chẳng cần nữa,
chẳng phải rửa chén, đĩa, chúng chẳng c̣n
nữa, chẳng thấy nữa, giống như ảo
thuật biến hiện. Chúng ta phải tin tưởng
lời đức Phật nói là chân thật, chẳng
phải là lời lẽ giả dối. Cách nói ấy
chẳng phải là ảo tưởng, các nhà khoa học
đă chứng thực. Nói theo Lư th́ thông suốt, nhưng
trên mặt Sự vẫn chưa làm được, v́ sao không
làm được? Khoa học kỹ thuật chưa
đủ sức, vẫn chưa đạt tới
cảnh giới ấy. Nói theo Lư th́ năng lượng và
vật chất có thể chuyển biến [thành lẫn
nhau]. Họ có năng lượng ấy, trí huệ viên măn,
đức năng viên măn. Điều ấy thuộc
về đức năng, họ có năng lực dùng
niệm lực biến đổi năng lượng thành
vật chất. Khi chẳng cần, bèn biến những
vật chất ấy trở về năng lượng,
chẳng c̣n nữa! Các nhà Vật Lư Học cận
đại đă biết chuyện này, nghe nói bom nguyên
tử được phát minh theo đạo lư này, từ
vật chất giải phóng năng lượng. Hiện
thời, chẳng có cách nào biến năng lượng thành
vật chất, [phương pháp] khoa học kỹ
thuật ấy vẫn chưa có. Nếu có, mọi
người chẳng cần tranh đoạt tài nguyên
như trong hiện tại, tự ḿnh có thể biến ra!
Tất cả vật chất đều do năng
lượng biến hiện; hiện thời, mọi
người đều hiểu đạo lư này. Chúng ta
cần có vàng, bèn biến năng lượng thành vàng, vàng
dùng chẳng hết. Hiện thời đă hiểu
đạo lư sau đây: Hiện tượng vật
chất khác nhau, có nhiều thứ vật chất là do
tần số dao động khác nhau. Khi nào có thể
khống chế tần số dao động, há chẳng
phải là “thuận theo ḷng
muốn” ư? Người kiến tánh có bản lănh,
kẻ đă mê mất tự tánh bèn đánh mất bản
năng (năng lực sẵn có). Đức Phật
dạy chúng ta: Chẳng phải là thật sự đánh
mất, mà là tạm thời mất đi; khi nào quư vị
giác ngộ, nó bèn trở lại nguồn. Ngày nào giác
ngộ, ngày ấy trở lại nguồn! Khi mê bèn mất
đi, khi ngộ bèn trở lại nguồn, nó là Tánh
Đức, Tánh Đức vĩnh viễn chẳng mất
đi. V́ thế, có thể thật sự lư giải
điều này, sau đấy khắc chế chính ḿnh, nghiêm
túc tu hành, tu hành như thế nào? Chẳng tạo tác
nghiệp sanh tử.
“Nhược
vô sanh tử chi nghiệp, tức vô quả báo chi khổ nhi
đắc tự tại” (nếu không có nghiệp sanh
tử, sẽ được tự tại v́ chẳng có
nỗi khổ do quả báo). Nghiệp sanh tử là ǵ? Trong
giáo pháp Đại Thừa thường nói, kinh này cũng
có nói, Kiến Tư phiền năo là nghiệp sanh tử,
đừng nên tạo tác những nghiệp ấy nữa.
Kiến Tư phiền năo quy nạp thành sáu điều là
tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Chẳng c̣n tạo sáu
chuyện ấy, sẽ chẳng có sanh tử. Sanh tử là
nghiệp luân hồi, [chẳng c̣n tạo Kiến Tư
phiền năo, sẽ] chẳng c̣n luân hồi trong lục
đạo nữa. Do vậy, chớ nên tham. Đức
Phật bảo chúng ta đoạn tâm tham, chẳng bảo
chúng ta thay đổi đối tượng, nhất định
phải hiểu rơ điều này. V́ sao? Rất nhiều
người học Phật, sanh
khởi tâm tham đối với Phật pháp, sai mất
rồi! Đó là thay đổi đối tượng,
chứ quư vị chẳng đoạn tâm tham. Như
Lương Vũ Đế xưa kia, Lương Vũ
Đế tham công đức, tham Phật pháp. Nhà vua
chẳng làm chuyện ác, đă đoạn hết thảy
ác, nhưng tham tu hết thảy thiện, đó là sai
lầm! Đoạn ác tu thiện là đúng, chẳng sai,
nhưng trong ấy chẳng có tham, sân, si, mạn, nghi, th́ là
đúng, đó là Phật pháp. Đoạn ác tu thiện,
nhưng trong ấy c̣n có tham, sân, si, mạn, nghi, th́ chỉ
có thể nói là thiện pháp thế gian! Tu những thiện
pháp ấy, đắc phước báo nhân thiên, chẳng
đọa lạc tam đồ, nhưng không thoát khỏi
luân hồi, chớ nên không biết điều này! Trong
đoạn ác tu thiện, chẳng v́ tự tư tự
lợi, chẳng có đúng, sai, ta, người, chẳng có
tham, sân, si, mạn, bèn thoát khỏi lục đạo.
Nếu niệm Phật, đem công đức ấy
hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, quyết
định được sanh, không chỉ vượt
thoát lục đạo, mà c̣n vượt thoát mười
pháp giới, công đức ấy thù thắng khôn sánh.
Đây là cách giải thích thông thường đối
với ba môn giải thoát.
Nay chúng ta quay lại đọc
lời chú giải, tức chú giải kinh Vô Lượng
Thọ: “Không, Vô Tướng,
Vô Nguyện giả, Tịnh Ảnh Sớ viết: Chúng sanh
cập pháp, tất vô tự tánh, cố danh vi Không” (Không,
Vô Tướng, Vô Nguyện: Tịnh Ảnh Sớ
giảng: “Chúng sanh và pháp đều chẳng có tự tánh,
nên gọi là Không”). “Chúng sanh và
pháp”: Nói thật ra, chúng sanh và pháp là một chuyện.
Trong vũ trụ, Phật pháp gọi [vũ trụ] là “pháp
giới”, chẳng gọi là vũ trụ mà gọi là pháp
giới, pháp giới to hơn vũ trụ. Vạn sự
vạn vật trong khắp pháp giới hư không giới
phẩm loại vô lượng, vô biên, vô số, vô tận;
trong giáo học, nhằm thuận tiện, đức
Phật dùng một danh từ để gọi chung
[vạn sự vạn vật] là Pháp. V́ thế, Pháp là danh
từ chung thay cho hết thảy sự vật trong khắp
pháp giới hư không giới. Chúng sanh và pháp do đâu mà có?
Do các duyên ḥa hợp sanh khởi, nên gọi là “chúng sanh”. V́ thế, “chúng sanh” có ư nghĩa vô cùng
rộng răi, chẳng có pháp nào sanh khởi độc
lập, mà đều là các duyên ḥa hợp. Thí dụ như
hiện thời nói đến vật chất, các nhà khoa học
thoạt đầu nói tới nguyên tử, nghĩ nguyên
tử là nhỏ nhất. Về sau, khoa học tiến
bộ hơn, biết nguyên tử chẳng phải là
nhỏ nhất, c̣n có thể phân chia, chia thành điện
tử, lại chia thành các hạt, lại chia thành những
hạt cơ bản, gọi là Khoa-khắc (Quark). Nay
lại biết thứ này vẫn có thể chia nhỏ, chia
thành lượng tử (Quantum). Lượng tử c̣n
gọi là tiểu quang tử, đại khái chẳng
thể chia nhỏ hơn nữa. Phật pháp gọi
những hiện tượng ấy là “vi trần”, hạt
bụi rất nhỏ là “vi trần”. Vi trần vô cùng vi
tế, trong kinh Phật cũng dùng tỷ dụ. Thô
nhất, nhục nhăn vẫn có thể thấy
được th́ gọi là Ngưu Mao Trần (Go-raja). Lông
ḅ rất thô, trên đầu sợi lông ḅ có một mảnh
bụi dính ở đó, nay chúng ta biết nó có sức hút,
vật chất có sức hút khiến mảnh trần
ấy chẳng rơi xuống. Hạt trần ấy chia
thành bảy phần, một phần bảy bèn gọi là
Dương Mao Trần (Avi-raja).
Lông dê mịn hơn lông ḅ, hạt trần dính trên
đầu một sợi lông dê [th́ gọi là Dương
Mao Trần]. Dương Mao Trần lại chia thành bảy
phần, một phần ấy gọi là Thố Mao Trần
(Śaśa-raja). Lông
thỏ càng mịn hơn nữa. Người Trung Quốc
dùng bút lông, rất nhiều loại bút chế bằng lông
thỏ. Thố Mao Trần rất nhỏ, dính trên
đầu sợi lông [con thỏ] chẳng rớt. Thố
Mao Trần lại chia thành bảy phần, một phần
ấy gọi là Thủy Trần (Ap-raja). Thủy là hiện tượng
vật chất, nó có những kẽ hở, nh́n dưới
kính hiển vi, những kẽ hở ấy rất lớn.
Hạt bụi ấy có thể bơi qua bơi lại không
chướng ngại giữa các khe hở của [những
phân tử nước], nên gọi là Thủy Trần.
Thủy Trần lại chia thành bảy phần th́ một
phần ấy gọi là Kim Trần (Loha-raja). Kim loại có
mật độ cao, nhưng vẫn có các kẽ hở
[giữa các phân tử]. Các hạt ấy có thể di
chuyển tự do giữa các kẽ hở [của các phân
tử] trong kim loại, chẳng bị chướng
ngại. Hạt này quá nhỏ, nhục nhăn của chúng ta
chẳng thấy được. Kim Trần lại chia
thành bảy phần, một phần ấy gọi là Vi
Trần (Aṇu), kinh
dạy: Thiên Nhăn của A La Hán có thể thấy vi trần,
chẳng cần dùng máy móc mà có thể thấy. Vi Trần
c̣n có thể chia nhỏ, lại chia thành bảy phần th́
một phần ấy gọi là Sắc Tụ Cực Vi (Paramāṇu), A La Hán
chẳng nh́n thấy, nhưng Bồ Tát có thể nh́n
thấy. Sắc Tụ Cực Vi vẫn c̣n có thể chia
nhỏ, lại chia thành bảy phần th́ một phần
gọi là Cực Vi Chi Vi, các vị Bồ Tát b́nh phàm
chẳng nh́n thấy, đại khái là từ Thất
Địa Bồ Tát trở lên mới có thể thấy. V́
thế, đức Phật dùng Trần làm đại
biểu. Di Lặc Bồ Tát nói “một
hạt vi trần” th́ đại khái là nói tới Cực
Vi Chi Vi, nhục nhăn của chúng ta tuyệt đối
chẳng thấy được, trong một hạt vi
trần ấy có thế giới. Có lẽ các nhà khoa học
đă nh́n thấy Cực Vi Chi Vi như đức Phật
đă nói, đó là ǵ vậy? Nhà khoa học nói tiểu quang
tử, c̣n gọi là lượng tử, rất có thể là
Cực Vi Chi Vi như Phật đă nói. Đức Phật
nói trong ấy có thế giới, khoa học chưa nói
đến. Người nào có thể tiến vào thế
giới ấy? Kinh Hoa Nghiêm nói Phổ Hiền Bồ Tát có
thể vào thế giới trong một vi trần. Thế
giới trong vi trần và thế giới của chúng ta to
như nhau, cũng có mười phương các cơi
Phật, cũng náo nhiệt. Phổ Hiền Bồ Tát có
thể tiến nhập thế giới trong vi trần
để tham học. Trong mỗi vi trần đều có
thế giới, trong thế giới ấy c̣n có vi trần,
trong vi trần c̣n có thế giới, trùng trùng vô tận, chẳng
thể nghĩ bàn! Do nguyên nhân ǵ? Công đức của
tự tánh vốn là như thế. Tuyệt đối
chẳng một ai có thể suy lường hay tưởng
tượng được. Tự tánh vốn trọn
đủ đức tướng, [tức là] đức
năng và tướng hảo, trùng trùng vô tận. Đúng
như hai câu nói của cổ nhân: “Không ǵ lớn ra ngoài, không ǵ nhỏ chẳng ở
trong”. Dùng Phật pháp để giải thích hai câu
ấy sẽ giảng thấu triệt, chẳng sai tí nào!
Cổ nhân Trung Quốc chẳng giảng rơ hai câu ấy. V́
thế, Phật giáo truyền đến Trung Quốc,
đúng như ông Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) đă nói: “Phong phú hóa văn hóa bản
địa của Trung Quốc”. Tổ tiên đă nêu ra
quan niệm này, đức Phật đă giải thích nó,
chẳng khác nhau! Do vậy, trong Phật pháp có khoa học
cao cấp, chẳng giả! Tin tưởng khoa học th́
phải học ở nơi đâu? Phải học
Phật. A Di Đà Phật là đại triết gia,
đại khoa học gia. Các nhà khoa học phải
đến du học trong thế giới Cực Lạc th́
mới có thể đạt tới mức đăng phong
tạo cực. Nếu không, học những thứ khoa
học [trong hiện thời], đều là những
thứ khoa học trong vườn trẻ, chẳng mang lại
hạnh phúc cho chúng sanh, mà đem lại tai nạn, nay chúng
ta đă nếm mùi đau khổ rồi! Khi khoa học
vừa mới khởi đầu h́nh thành, tuy rất
ấu trĩ, nhưng rất khá, đem lại rất
nhiều thuận tiện cho chúng ta, v́ sao? Chẳng phá
hoại thiên nhiên nghiêm trọng! Hiện thời, khoa
học phát triển, nhưng chẳng liễu giải chân
lư khoa học, mà cũng chẳng liễu giải triết
học, thuận theo tham, sân, si mạn của chính ḿnh mà phá
hoại sự cân bằng sinh thái trong thiên nhiên, nay thiên nhiên
trả thù, đó là dẫn đến hậu quả.
Đấy chẳng phải là trí huệ, mà là tri thức.
Trong tri thức vẫn có ngu mê y như cũ! Các nhà khoa
học chẳng sánh bằng Thanh Văn, Duyên Giác. Thanh
Văn, Duyên Giác đă đạt được vô ngă, vô
tư, c̣n các nhà khoa học Ngă Chấp hết sức kiên
cố, v́ tự tư tự lợi, khởi tâm
động niệm tổn người, lợi ḿnh. Khoa
học dùng các thứ kỹ thuật để làm ǵ?
Mở rộng tham, sân, si, mạn của họ, sai mất
rồi! V́ thế, mang lại tai nạn cho cả
địa cầu, chúng ta chớ nên không biết
điều này. Chúng ta phải lư giải ư nghĩa của
chúng sanh và pháp.
Sau đó, bảo quư vị, “tất vô tự tánh”
(đều chẳng có tự tánh). Tự tánh là thể tánh
của chính ḿnh. Chẳng có tự tánh. Chúng do các duyên ḥa
hợp, duyên tụ th́ có, duyên tán bèn chẳng c̣n nữa.
Giống như căn nhà này, căn nhà chẳng có tự
thể. Tự tánh là tự thể, thực thể;
chẳng có [tự thể], nó do các duyên ḥa hợp. Quư
vị thấy cốt sắt, xi-măng, gạch, ngói,
những thứ vật liệu xây dựng, do sức
người kết hợp lại. Đó là các duyên ḥa
hợp, dựng lên căn nhà. Phá hủy đi, chất
đống tại đó, bèn là vật liệu xây dựng,
chẳng thấy nhà nữa! Đức Phật bảo chúng
ta, tất cả hết thảy các pháp tướng
đều là các duyên ḥa hợp mà hiện. Duyên tụ bèn có,
duyên tán bèn diệt; v́ thế, chúng chẳng phải là
thật, mà là giả. Quư vị phải biết: Chúng
chẳng có tự thể, chẳng có tự tánh, nên gọi
là Không. Không là ǵ? Bản thể của nó chính là Không,
căn nhà có tồn tại hay không? Người hiểu rơ
ràng điều ấy, nó chẳng có bản thể, chỉ
là [các duyên] kết hợp mà thôi, hễ tách rời [các duyên]
bèn chẳng c̣n nữa! V́ thế, phải biết: Không là
thật, Có là giả, chớ nên chấp trước
giả hữu! “Năi chí nhân duyên,
tướng diệc bất hữu” (cho đến nhân
duyên cũng chẳng có tướng); nhân duyên cũng
chẳng thể đạt được. “Thuyết vi Vô Tướng” (nên nói là Vô
Tướng). Chúng sanh và pháp đều vô tự tánh, nên
gọi là Không. Vô Tướng do đâu mà có? Tướng
nhân duyên cũng chẳng thật, nên gọi là Vô
Tướng.
“Thử
ly sở thủ” (do vượt khỏi những cái
bị giữ lấy), thật sự hiểu rơ ràng, minh
bạch. Thủ (取) là chiếm hữu, khống chế.
Đối với hết thảy các pháp, chẳng có ư
niệm khống chế, chẳng chiếm hữu, kể
cả thân thể của chính ḿnh. Điều này rất
trọng yếu. V́ nếu ta chiếm hữu thân thể
này, ta muốn có thân thể này, thân thể sẽ sanh
bệnh, v́ sao? Tâm quư vị chẳng b́nh thường, tâm
ấy là vọng tâm. Phật, Bồ Tát chẳng có tâm
ấy, vô ngă, không có ta, nên thân thể các Ngài là tự nhiên.
Thân thể của các Ngài tương ứng với Pháp
Tánh, tương ứng với Pháp Tướng. V́ thế,
các Ngài vĩnh viễn chẳng suy, vĩnh viễn chẳng
già, đạo lư là ở chỗ này. “Viễn ly vọng tưởng năng thủ chi tâm”
(Xa ĺa cái tâm vọng tưởng chấp lấy), Ngài
chẳng có vọng tưởng, chẳng có phân biệt,
chẳng có chấp trước. “Cố
viết Vô Nguyện” (nên nói là Vô Nguyện). Vô Nguyện
chẳng phải là không làm chuyện ǵ, [mà là] chuyện ǵ
cũng đều làm. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật, lấy Ngài làm thí dụ. Ngài xuất sanh trong thế
gian này, v́ chúng ta giảng kinh, giáo học suốt bốn
mươi chín năm, vui sướng, chẳng mệt
nhọc; nhưng suốt một đời Ngài, Ngài
chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, nên gọi là Vô Nguyện. Vô Nguyện chẳng
phải là không làm lụng, mà là làm lụng hết sức
siêng năng. Do đó, nói: “Làm
nhưng chẳng làm th́ gọi là Vô Nguyện, c̣n gọi là
Vô Tác”. Tướng mà vô tướng, chẳng chấp
tướng, biết tướng ấy là huyễn
tướng. Đối với hết thảy cảnh
giới, đối với người, đối với
sự, đối vật, đều phải làm như
thế nào? Phải thực hiện hiếu đễ, trung
tín, lễ nghĩa, liêm sỉ, nhân ái, ḥa b́nh. Tuy đă làm
được, nhưng tâm địa thanh tịnh,
chẳng nhiễm mảy trần, đó gọi là Vô
Tướng. Tiểu Thừa gặp rắc rối ở
chỗ nào? Tiểu Thừa thật sự rớt vào Không,
họ chẳng làm, chẳng có nguyện, thật sự không
làm, thật sự chẳng nghĩ tới, nên thật
sự không làm. V́ thế, họ rơi vào bên Không,
được gọi là Thiên Chân Niết Bàn. Trong Thiên Chân
Niết Bàn, có sự vui sướng ǵ? Thanh tịnh! Thanh
tịnh vô vi, họ hưởng thụ điều ấy.
Bất quá, trong kinh, đức Phật đă nói: Họ
hưởng thụ đă lâu, bèn từ từ giác ngộ,
phải mất bao lâu? Hai vạn đại kiếp! Bích Chi
Phật thông minh hơn họ, Bích Chi Phật một
vạn đại kiếp bèn quay đầu. A La Hán
phải mất hai vạn đại kiếp mới
hồi Tiểu hướng Đại, hành theo Bồ Tát,
cũng có thể ở trong tướng mà chẳng chấp
tướng, tuy làm mà chẳng chấp tướng, mang ư
nghĩa này.
Chúng ta xem đoạn tiếp
theo: “Hựu vân: ‘Quán chư pháp
Không, thị danh Không” (Lại nói: “Quán hết thảy các
pháp là Không, nên gọi là Không”), biết hết thảy các
pháp vô tự tánh. “Ư Không trung,
bất khả thủ tướng” (Trong cái Không,
chẳng thể giữ lấy tướng). “Thủ tướng” là quư
vị chấp trước. Trong Không, chẳng thể
chấp trước Không. Chấp trước Không th́ sai
mất rồi! V́ vậy, trong Không chẳng thể giữ
lấy tướng. “Thị
thời, Không chuyển danh Vô Tướng” (khi ấy,
Không đổi tên thành Vô Tướng). Vô Tướng là
Không, Không là Vô Tướng, thay đổi danh từ, chúng
ta gọi nó là Vô Tướng. “Vô
Tướng trung, bất ưng hữu sở tác”,
[nghĩa là] nếu là vô tướng, [tuy vẫn làm]
nhưng chớ nên thấy có làm chuyện ǵ. “Vi tam giới sanh, thị
thời, Vô Tướng chuyển danh Vô Tác (tức Vô
Nguyện)” (để sanh trong tam giới, khi ấy, Vô
Tướng đổi tên thành Vô Tác, tức là Vô Nguyện)
Đây là giải thích ư nghĩa của ba danh từ,
tương đồng với những ư nghĩa đă nói
trong phần trước. Tiếp theo là một tỷ
dụ: “Thí như thành hữu
tam môn, nhất nhân thân bất đắc nhất thời
tùng tam môn nhập” (Ví như cái thành có ba cửa, một
thân người chẳng thể cùng một lúc vào
được ba cửa). Mỗi người chúng ta có
một thân thể, quư vị chẳng có cách nào vào ba cửa
cùng một lúc. Quư vị chỉ có thể vào một
cửa, một cửa th́ quư vị có thể tiến vào
được. “Nhược
nhập, tắc tùng nhất môn” (nếu vào th́ theo
một cửa). “Chư pháp
Thật Tướng thị Niết Bàn thành” (Thật
Tướng của các pháp là thành Niết Bàn). Thật
Tướng của chư pháp là Pháp Tánh, là tự tánh.
Nếu quư vị muốn kiến tánh, tức là “nhập Niết Bàn thành”. Vào
như thế nào? Thành có ba cửa, có Không, có Vô
Tướng, có Vô Tác, có ba môn ấy. “Nhược nhân nhập Không môn, bất đắc
thị Không, diệc bất thủ tướng, thị
nhân trực hạ sự biện” (Nếu người
theo cửa Không mà vào, chẳng thấy là Không, cũng
chẳng chấp tướng, th́ người ấy ngay khi
đó đă xong việc), [tức là] người ấy
đă viên măn. “Cố bất tu
nhị môn” (nên chẳng cần đến hai cửa kia
nữa), không cần theo hai cửa khác [để vào thành
nữa], hễ vào được [một cửa] th́
hết thảy đều đạt được! “Bất đắc thị Không”
là chẳng chấp Không, “diệc
bất thủ tướng” là chẳng chấp Có,
tức là như trong phần trước đă nói: “Chẳng trụ vô vi, chẳng
trụ hữu vi”. Quư vị thật sự kiến tánh!
Nếu quư vị chấp Không, chấp Có, trọn chẳng
vào được, chẳng tiến nhập
được! Do hàng Tiểu Thừa chấp Không,
chẳng chấp Có, tự nghĩ chính ḿnh đă tiến
nhập, nhưng [sự nhập ấy] chẳng thật,
nên gọi là Thiên Chân Niết Bàn (Niết Bàn chấp
chặt nơi Chân Đế). Nói cách khác, đó là
tương tự Niết Bàn, chẳng phải là thật
sự. [Niết Bàn] thật sự là nhị biên đều
chẳng thể chấp, đó là Bồ Tát nhập. Bồ
Tát nhập Bát Niết Bàn bèn thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói
người nào nhập đại tam không tam-muội?
Đại Thừa, tức là Sơ Trụ Bồ Tát bèn
nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Sơ Trụ
Bồ Tát dựa vào đâu để nhập? Ngài chẳng
chấp trước. Ư niệm chấp trước đă
đoạn, tâm phân biệt đă đoạn, khởi tâm động
niệm cũng đă đoạn. Khởi tâm động
niệm là Vô Minh, phân biệt là Trần Sa phiền năo,
chấp trước là Kiến Tư phiền năo. Quư vị
thấy đă đoạn Kiến Tư, đă đoạn
Trần Sa, đă đoạn Vô Minh, vị ấy bèn minh tâm
kiến tánh, kiến tánh thành Phật, bèn chứng
đắc Sơ Trụ trong Viên Giáo, vừa mới
chứng đắc [ba môn giải thoát ấy]. Ngài trụ
nơi đâu? Thật sự trụ trong thành Đại
Niết Bàn. Thành Đại Niết Bàn là chỗ nào? Cơi
Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai.
Chúng ta bèn hiểu đoạn
văn này giảng về cảnh giới của cơi
Thật Báo Trang Nghiêm. Chúng ta chưa đạt tới
cảnh giới này, quư vị chẳng tương ứng
với nó. Cơi Thật Báo chẳng có cửa, đi vào
bằng cách nào? Khí phận phù hợp bèn tiến nhập!
Người ta tâm rất thanh tịnh, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước đều
chẳng có. Nếu chúng ta nói chính ḿnh đă đoạn
hết phân biệt, chấp trước, nhưng c̣n
khởi tâm động niệm, [như vậy th́] sẽ
chẳng vào được! C̣n khởi tâm động
niệm sẽ đến nơi đâu? Đến bốn
thánh pháp giới, là “Niết Bàn thành” của Tiểu
Thừa. Cơi Thật Báo là “Niết Bàn thành” của
Đại Thừa Bồ Tát, khác hẳn. Chúng ta phải
hiểu những điều này, phải liễu giải
rất sâu, phải nhận thức rất rơ rệt, giúp
chúng ta nâng cao cảnh giới, giúp chúng ta thật sự
chịu buông xuống. Chẳng liễu giải sẽ
chẳng chịu buông xuống; chẳng biết buông
xuống tốt đẹp dường ấy! Buông
xuống là trở về quê nhà, phải biết
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là quê
hương của chúng ta. Chúng ta đến thế
giới Cực Lạc, đến cơi Thật Báo Trang Nghiêm
của A Di Đà Phật, là đến cửa ngơ của
quê hương. Phải biết điều này! [Đă
đến cửa ngơ, nhưng] chưa vào cửa, v́ sao?
Tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn sạch. Trong
kinh Phật có nói: Đoạn sạch tập khí của
bốn mươi mốt phẩm vô minh, quư vị bèn
bỏ địa vị Đẳng Giác, chứng
đắc Diệu Giác, nhập Thường Tịch Quang
Tịnh Độ. Chúng ta từ Thường Tịch Quang
mà ra, chư vị phải biết điều này.
Thường Tịch Quang là quê nhà, từ Thường
Tịch Quang đi ra. Thường Tịch Quang
được sách Hoàn Nguyên Quán gọi là “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”, đó là
bản thân chân thật của chúng ta, là quê nhà của chúng
ta. Do một niệm bất giác, bèn ra khỏi, từ
Thường Tịch Quang biến hiện cơi Thật Báo,
nhưng chúng ta vẫn chưa hưởng thụ cơi
Thật Báo, đọa quá nhanh, đọa xuống dưới.
Một niệm bất giác, xuất hiện ba tế
tướng, tức là ba tế tướng của A
Lại Da; khi ấy, có thể biến hiện y báo và chánh
báo trang nghiêm của mười pháp giới. Khởi tâm
động niệm, vô minh dấy lên, kế đó là phân
biệt, từ phân biệt, ngay lập tức dấy lên
chấp trước. Phân biệt là bốn thánh pháp giới
xuất hiện, chấp trước là lục đạo
luân hồi xuất hiện. Đến như thế nào,
trở về ra sao, phải hiểu rơ ràng, phải minh
bạch điều này!
Chúng ta cũng chẳng bỏ
nơi đây được! Vẫn lưu luyến như
thế đó, rất phiền! Quư vị có phải quay
về hay không? Phải quay về, dù sớm hay trễ! Quư
vị đă lưu luyến, bỏ chẳng
được, thôi rồi! Quư vị lại luân hồi
trong lục đạo! Phật, Bồ Tát thừa kiên
nhẫn, Phật, Bồ Tát thật sự từ bi, các Ngài
chờ quư vị bên đó, ngày nào quư vị thật sự
[cảm nhận] chịu tội trong lục đạo
đủ rồi, chẳng muốn chịu nữa,
Phật, Bồ Tát bèn đưa tay giúp đỡ,
đến dạy quư vị. “Thượng
căn lợi trí, thiện căn sâu dầy” là ǵ? Đó
là ǵ? Trong lục đạo chịu hết mọi nỗi
khổ, đă giác ngộ, chẳng muốn luân hồi
nữa. Oan oan tương báo với các chúng sanh, đ̣i
nợ, trả nợ chẳng xong, chẳng hết!
Hằng ngày diễn những tṛ đó, chẳng biết
những thứ ấy toàn là rỗng tuếch, là một
giấc mộng. Thật sự hiểu rơ th́ như kinh Kim
Cang đă nói rất hay: “Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng”, đời người như giấc mộng,
thật đấy, chẳng giả đâu! Tạo
thiện bèn hưởng vui trong mộng; tạo ác bèn
chịu khổ trong mộng. Tỉnh giấc, hoàn toàn
rỗng tuếch, thứ ǵ cũng chẳng có, đạo
lư này rất sâu, rất khó hiểu. Do vậy, thuở
tại thế, đức Phật giảng chuyện này,
giảng đạo lư này, giảng Bát Nhă suốt hai
mươi hai năm. Hai mươi hai năm chẳng
kể là dài, đă thật sự giác ngộ, quư vị
sẽ vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi,
chẳng làm chuyện ngốc nghếch nữa. Duyên
đặc biệt thù thắng, chúng ta rất may mắn,
chúng tôi đang nói điều ǵ vậy? Nói quư vị
gặp gỡ pháp môn Tịnh Độ, quư vị thật
may mắn, Bồ Tát đều hâm mộ quư vị, gặp
gỡ Tịnh Độ là thành Phật trong một
đời! Chẳng phải là thành A La Hán, chẳng
phải chỉ thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly
mười pháp giới, mà c̣n thoát ly cơi Thật Báo, trực
tiếp trở về tự tánh, trở về tự tánh
viên minh thể, tuyệt diệu quá! Hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ
này.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 59 hết
[1] Tánh thị (姓氏) hiểu theo nghĩa hiện thời là những tiêu chí (criteria) để phân biệt các gia
tộc khác biệt. Tánh thị có tác dụng phân biệt
những người cùng thị tộc (có quan hệ
huyết thống trực tiếp) để tránh xảy ra
hôn nhân giữa những người có cùng huyết
thống. Thoạt đầu, Tánh và Thị là hai khái
niệm khác nhau. Nghĩa gốc của Tánh là con cái do cùng
một mẹ sinh ra, v́ thời cổ chưa có chế
độ phụ hệ. Do đó, các họ cổ như
Cơ, Tự, Quy, Diêu, Khương, Doanh… đều
viết với bộ Nữ. Sau này, khi chế độ
phụ hệ thành lập, Tánh mới gọi theo tên cha, và
mang ư nghĩa, những người cùng Tánh là những người
có cùng một ông tổ. Do con cháu ngày càng nhiều, h́nh thành
các chi họ khác nhau, sống rải rác khắp nơi,
thường lấy tên đất, tên chức quan, tên
tự của ông tổ, hoặc nghề nghiệp
để gọi các chi họ, h́nh thành nên khái niệm
Thị. Như vậy, Tánh là danh xưng chung của toàn
thể gia tộc, c̣n Thị là danh xưng của một chi tộc. Thời Tam Đại (Hạ,
Thương, Châu), quy tộc hôn nhân dựa trên tánh Thị:
Cùng Tánh, chẳng cần biết là Thị giống nhau hay
khác nhau đều chẳng được lấy nhau.
Thị giống nhau, nhưng Tánh khác nhau th́ có thể
lấy nhau. Lại c̣n quy định nam dùng Thị, nữ
dùng Tánh. Về sau, hầu như Thị đóng vai tṛ
chủ yếu để phân định ḍng họ và Tánh Thị
được gộp chung lại để chỉ ḍng
họ. Rất nhiều Thị thoạt đầu tuy cùng
một tổ tiên, nhưng do quá tŕnh thiên di và sinh hoạt,
được coi như là những ḍng họ riêng
biệt. Một thí dụ nổi tiếng là Chúc Dung Bát Tánh,
tức là con cháu của vua Chúc Dung (cháu bốn đời
của Viêm Đế, họ Khương) được
chia thành tám họ là Kỷ, Đổng, Bành, Vân, Tào, Châm,
Thốc, Tân. Trong khi đó, riêng chính họ Khương
lại chia thành các họ Lă, Tề, Tạ, Cao, Lư, Thôi
v.v… Câu “Hoàng Đế có hai
mươi lăm người con, mười bốn
người có tánh thị” xuất phát từ thiên Ngũ
Đế Bản Kỷ trong Sử Kư của Tư Mă Thiên,
theo đó, những Thị ban đầu là Cơ, Dậu,
Kỳ, Kỷ, Đằng, Châm, Nhậm, Tuân, Hy, Cật,
Hoàn, Y v.v…
[2] Sách Bách Gia Tánh là một cuốn sách ghi
các họ phổ biến tại Trung Quốc, không rơ ai là
tác giả. Sách được h́nh thành vào đầu
thời Bắc Tống, thoạt đầu chỉ ghi 411
họ, về sau, tăng thêm thành 504 họ. Trong đó, có
444 họ đơn và 60 họ kép (như Tư Mă,
Thượng Quan, Âu Dương,
Lệnh Hồ, Hoàng Phủ, Tư Đồ, Vũ Văn,
Hô Diên, Đoan Mộc, Uất Tŕ, Hạ Hầu, Hiên Viên,
Tư Khấu, Tư Đồ, Công Dă, Thuần Vu, Độc
Cô, Nam Cung…). Thứ tự các họ không được ghi
theo số lượng người mang họ ấy mà ghi sao
đọc lên cho thuận miệng. Họ Triệu
được xếp đứng đầu v́ là họ
của các vua nhà Bắc Tống. Sách ghi theo kiểu bốn
chữ một, xin trích đoạn mở đầu như
sau: “Triệu, Tiền, Tôn, Lư. Chu, Ngô,
Trịnh, Vương. Phùng, Trần, Chử, Vệ.
Tưởng, Trầm, Hàn, Dương. Châu, Tần, Vưu,
Hứa. Hà, Lă (Lữ), Thí, Trương. Khổng, Tào, Nghiêm,
Hoa. Kim, Ngụy, Đào, Khương…”
[3] Ghế Thái Sư (Thái Sư Ỷ) là
một loại ghế dựa xuất hiện từ
thời Tống. Ghế Thái Sư hiện thời phổ
biến nhất theo kiểu đời Thanh, lưng cao,
thường chạm rỗng. Ghế làm bằng gỗ quư
(như tử đàn, hồng mộc, lê hoa v.v…), lưng
ghế thường chạm trổ thành h́nh hoa lá, có
chỗ để dựa tay hai bên. Chỗ dựa tay
cũng chạm rỗng thành h́nh mây cuộn, hoa, lá, hoặc chữ Triện, chữ Thọ,
chữ Phước v.v... Thái Sư Ỷ kiểu
đời Thanh đ̣i hỏi lưng dựa và hai chỗ dựa
tay phải tạc liền một khối. Ghế
thường to và rộng, không lót đệm. Thoạt
đầu, loại ghế này chỉ dùng trong cung đ́nh,
hoặc nha môn. Về sau, chỉ có những người có
địa vị, quan chức trong xă hội mới được dùng. Hiện thời,
ghế Thái Sư thường được trưng
bầy trong tư gia như một cách khoe giàu sang kín đáo
(v́ do làm bằng gỗ quư và tốn nhiều công
chạm trổ nên khá đắt tiền). Chỉ từ
đời Thanh trở đi, mới bắt đầu có
khuynh hướng gắn một phiến đá quư
(thường là đá Đại Lư chạm trổ thành h́nh
sơn thủy gắn vào giữa lưng ghế), nhưng
kiểu ghế Thái Sư có gắn đá vẫn không
được ưa chuộng cho lắm. Thậm chí có
người chê kiểu ghế Thái Sư có lưng gắn
đá là thô tục.
[4] Đời trước, quốc sư
Ngộ Đạt là Viên Áng (200-150 trước Công Nguyên),
tự là Ty, là người nước Sở, rất tài
giỏi, được người thời ấy xưng
tụng là Vô Song Quốc Sĩ. Viên Áng làm quan dưới
thời Hán Văn Đế, do can vua quá thẳng thừng,
khiến vua nổi giận, đuổi ra làm Thứ Sử
Lũng Châu. Sau đó, Viên Áng được phái làm Thừa
Tướng cho Ngô Vương (Lưu Tỵ) rất
được trọng đăi (thời ấy, tông thất
nhà Hán được phong vương, đất phong
được gọi là Quốc, nên mới có nước
Ngô, nước Sở v.v… và mỗi nước chư
hầu ấy cũng có triều đ́nh riêng). Tiều
Thố (200-154 trước Công Nguyên) được coi là “trí nang” (cái túi khôn) của Hán
Văn Đế, quê ở Dĩnh Châu, thoạt đầu
giữ chức quan Thái Thường đời Hán Văn
Đế. Về sau, lần lượt giữ các chức
Thái Tử Xá Nhân, Bác Sĩ, Thái Tử Gia Lệnh (thầy
dạy Thái Tử). Thái Tử Lưu Khải (tức Hán
Cảnh Đế sau này) hết sức tôn trọng ông,
thường dùng mỹ hiệu “trí nang” để gọi
ông thay v́ gọi thẳng tên. Đầu thời Cảnh
Đế, Tiều Thố giữ chức Ngự Sử
Đại Phu. Ông từng dâng thư xin vua chú trọng nông
nghiệp, tăng cường pḥng vệ biên cương,
tập trung quyền lực bằng cách tước
đoạt binh quyền và đất phong của chư
hầu. Thế là vua bảy nước chư hầu
gồm Ngô Vương Lưu Tỵ, Sở Vương
Lưu Mậu, Giao Tây Vương Lưu Ngang, Giao Đông
Vương Lưu Hùng Cừ, Truy Xuyên Vương Lưu
Hiền, Tế Nam Vương Lưu Tích Quang và Triệu
Vương Lưu Toại phất cờ làm phản, cùng
kéo binh về kinh đô, giương chiêu bài “tru Tiều Thố, thanh quân xí” (giết
Tiều Thố, dọn sạch những kẻ
kết bè kéo cánh bên cạnh nhà vua). Do sẵn ganh tỵ và
đụng chạm từ trước, Viên Áng lén vào cung
khuyên vua giết Tiều Thố để xoa dịu quân
phản loạn. Vua nghe lời, sai người lôi Tiều
Thố ra chợ chém ngang lưng. Tuy Tiều Thố đă
chết, quân phản loạn không rút lui, Ngô Vương
tự xưng là Hoàng Đế. Cuối cùng nhờ Thái Úy
Châu Á Phu và Đại Tướng Quân Đậu Anh dốc
sức mới dẹp tan quân phản loạn. Tuy vậy, do
khéo ăn nói và khéo đón gió, Viên Áng rất được
vua tin dùng. Về sau, do Viên Áng can ngăn vua đừng
lập Lương Vương Lưu Vũ làm Thái Tử,
nên kết oán với Lương Vương, bị
Lương Vương thuê thích khách giết chết.
[5] Một cân là mười sáu lạng. Cân
tại Hương Cảng, Macao và Đài Loan chừng 605g,
cân tại Trung Hoa Đại Lục chỉ có 500g.
[6] Biến Tướng Đồ (變相圖, hay c̣n gọi tắt là Biến) là
những tranh ảnh hoặc điêu khắc trong Phật
giáo nhằm thể hiện những câu chuyện trong kinh.
Biến Tướng Đồ phổ biến nhất là
các loại miêu tả địa ngục hay Tịnh
Độ của chư Phật như Tây Phương
Cực Lạc Tịnh Độ hoặc cơi Lưu Ly
của Dược Sư Phật.
[7] Đây là cách đọc theo âm Quan
Thoại. Chữ Giải dùng như danh từ sẽ
đọc là Jiě, c̣n dùng như động từ sẽ
đọc là Xiè (giống như âm đọc của
chữ Tạ trong Quan Thoại). Âm Hán Việt chỉ
đọc là Giải (tuy có một số trường
hợp, theo cụ Thiều Chửu, phải đọc là
Giái (với ư nghĩa giải tù đi, hoặc đỗ
đầu khoa thi Hương được gọi là Giái
Nguyên), hoặc Giới như con Giới Trăi (解廌) là một loài thú giống như
hươu, nhưng chỉ có một sừng; nhưng do
thói quen, chẳng ai đọc chữ này là Giái hoặc Giới).
[8] Tam Tạng Pháp Số, tên gọi
đầy đủ là Đại Minh Tam Tạng Pháp
Số, là một từ điển về các danh từ
thuật ngữ Phật Học do ngài Nhất Như chủ
biên vào đời Minh, gồm năm mươi quyển,
hoàn thành trong niên hiệu Vĩnh Lạc. Nội dung gồm
1.555 từ ngữ, khởi đầu bằng Nhất Tâm
và kết thúc bằng Bát Vạn Tứ Thiên Pháp Môn. Mỗi
từ ngữ đều được chú giải tỉ
mỉ, ghi rơ những lời trích dẫn phát xuất từ
kinh, luận nào. Ngài Nhất Như quê ở Cối Kê, là
đệ tử của cao tăng Cụ Am, trụ tại
chùa Thiên Trúc. Năm Vĩnh Lạc 17 (1419), Sư vâng
chiếu giảo duyệt Đại Tạng Kinh và biên soạn
tác phẩm này.
[9] Pháp Giới Thứ Đệ có tên
gọi đầy đủ là Pháp Giới Thứ
Đệ Sơ Môn do ngài Trí Khải (Trí Giả đại
sư, Thiên Thai đại sư) soạn vào đời Tùy,
nương theo thứ tự các nghĩa lư để
giải thích các danh từ pháp số thường gặp.
[10] Nguyên văn là “tiêu bản” (標本), hiểu theo nghĩa hẹp là một thứ
ǵ để làm mẫu, làm gốc trong sinh vật học.
Chẳng hạn như người ta cắt một lát mô của
một con vật ép lên một phiến thủy tinh mỏng
để dễ quan sát hoặc dùng trong giảng dạy.
Hiểu theo nghĩa rộng, tiêu bản là cái để nêu
gương, làm mẫu.